Cập nhật thông tin chi tiết về Chuyên Đề Ung Thư Bóng Vater Part 2 mới nhất trên website Brandsquatet.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Vàng da là triệu chứng lâm sàng ở 73% bệnh nhân đã phẫu thuật cắt bỏ khối u và 80% bệnh nhân chưa được phẫu thuật. Vàng da có thể tăng hoặc giảm liên tục bởi sự hoại tử trung tâm, tróc hoặc áp lực mở của ống mật đã tắc nghẽn. Bệnh nhân có khối u ác tính thường bị vang da và có những khối u lớn hơn
Một số điểm đặc trưng khác bao gồm:
Sụt cân tăng dần là triệu chứng thường gặp thứ 2 (61%)
Đau bụng và vùng lưng(46%).
Đau vùng lưng có thể là dấu hiệu của bệnh nặng hơn
Ngứa có thể lien quan đến vàng da trong 13-38% trường hợp
Khó tiêu và nôn ói cũng có thể gặp nếu có sự tắc nghẽn đầu ra dạ dày
Mất khẩu vị cũng được lưu ý
Tiêu chảy cũng có thể xảy ra do sự thiếu hụt lipase trong ruột lien quan đến tắc nghẽn ống tụy
Xuất huyết tiêu hóa xảy ra ở 5% bệnh nhân đã cắt bỏ khối u và 22% bệnh nhân chưa phẫu thuật
Viêm tụy cấp ở bệnh nhân chưa phẫu thuật cắt bỏ chiếm 28% so với 2% ở người đã phẫu thuật
Khám lâm sàng có thể phát hiện:
Sốt có thể xuất hiện trong diễn tiến vàng da tăng dần
Gan to
Trong những trường hợp hiếm gặp, có thể gặp bệnh cảnh của viêm tụy cấp
Sờ được khối ở thượng vị hoặc hạch thượng đòn là dấu hiệu của bệnh tiến triển và không phẫu thuật được
Cơ chế bệnh sinh chưa được biết rõ:
Tiền căn polyp tuyến gia đình(FAP) làm tăng nguy cơ u ác tính lẫn lành tính
Khoảng 50-90% bệnh nhân FAP có u tá tràng phát triển, tập trung chủ yếu xung quanh và trên nhú lớn
Đột biến K-ras có thể là một nhân tố gây bệnh
Di căn gan, cấy ghép màng thanh dịch, cổ trướng, hạch bạch huyết bên ngoài vùng phẫu thuật, sự xâm lấn các mạch máu chính là những chống chỉ định của phẫu thuật cắt bỏ. Vai trò của điều trị nội khoa vẫn còn gây tranh cãi.
Willett và các đồng nghiệp đã báo cáo việc kết hợp xạ trị đối với những trường hợp u bóng Vater nguy cơ cao cho kết quả tốt hơn so với phẫu thuật đơn thuần. Tuy nhiên không có sự khác biệt về tỉ lệ sống còn của bệnh nhân được ghi nhận
Bhatia và cộng sự công bố kinh nghiệm vào năm 2006 kết luận rằng 5-flouroracil và xạ trị cải thiện sự sống còn tổng thể ở bệnh nhân có hạch bạch huyết nhưng không cần thiết ở những khối u tiến triển tại chỗ
Barton và Copeland báo cáo Trung tâm Ung thư M.D Anderson về kinh nghiệm sử dụng liệu pháp hóa trị sau phẫu thuật đối với carcinom bóng Vater. Sự phối hợp thuốc không kéo dài đời sống bệnh nhân. Krishnan và đồng nghiệp cập nhật báo cáo vào năm 2008. Loạt bài này đưa ra giả thuyết về lợi ích sống còn tổng thể điều trị bằng flouroracil hoặc capecitabine sau phẫu thuật cắt bỏ tụy-tá tràng, mặc dù nghiên cứu của họ chỉ thực hiện trên 54 bệnh nhân nên không có ý nghĩa thống kê. Nhóm này cũng gợi ý rằng các giai đoạn tiến triển của khối u tại chỗ(T3/T4) cần bổ sung xạ trị kết hợp dùng thuốc, vì đây là chỉ số tiên lượng dè dặt.
Kim và các đồng nghiệp báo cáo về nghiên cứu trên 118 bệnh nhân, trong đó 41 người được điều trị kết hợp thuốc với xạ trị bằng 5-flouroracil, tổng liều bức xà là 40Gy. Kết quả cho thấy có sự gia tăng tỷ lệ sống còn tổng thể, mặc dù cũng không đạt được ý nghĩa thống kê
Một nghiên cứu giai đoạn II đánh giá hiệu quả của capecitabine và oxaliplatin ở bệnh nhân có ung thư biểu mô tuyến của ruột non hoặc phần bóng cho thấy có sự cải thiện về tỉ lệ sống còn tổng thể so với phác đồ báo cáo.
Gemcitabine cho thấy sự hứa hẹn trong những trường hợp ung thư đường mật. Những kết quả cho thấy gemcitabine, đơn trị hay kết hợp hóa trị, trong những trường hợp u quanh bóng khó chẩn đoán nhưng có đặc trưng vùng mật tụy
Phẫu thuật cắt bỏ là lựa chọn đầu tiên. Hiệu quả điều trị cao nhất đạt được khi khối u khu trú ở vùng bóng và được cắt bỏ hoàn toàn.
Nội soi ổ bụng chẩn đoán có thể được chỉ định để tránh mở bụng trong các trường hợp đã di căn xa
Phẫu thuật cắt khối tá-tụy ( Whipple) là phương pháp tiêu chuẩn. Phẫu thuật cắt khối tá-tụy bảo tồn môn vị hay Whipple cổ điển có thể được thực hiện tùy vào mức độ của khối u và kinh nghiệm của phẫu thuật viên. Với sự cải tiến trong quản lý sau mổ và tiến bộ kỹ thuật, tỉ lệ tử vong do phẫu thuật chỉ là 1%. Tỉ lệ có thể cắt bỏ khối u lên đến 96% vào thập niên 90.
Cắt khối u tại chỗ được xem xét ở những bệnh nhân adenom bóng không có loạn sản trên sinh thiết là những bệnh nhân được chỉ định với phẫu thuật cắt bỏ khối tá-tụy. Tỉ lệ tái phát khá cao nên nội soi tầm soát cần được chỉ định.
Những xét nghiệm mở rộng trước phẫu thuật đánh giá chức năng tim, hô hấp, thận, não được thực hiện ở những bệnh nhân cao tuổi
Các chuẩn bị trước phẫu thuật bao gồm:
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng, bổ sung khi cần thiết
Kháng sinh đường uống, sửa soạn ruột(không thực sự cần thiết đối với phẫu thuật cắt khối tá-tụy)
Đánh giá chức năng đông máu
Kháng sinh dự phòng đường tĩnh mạch
Dẫn lưu mật trước phẫu thuật ở bệnh nhân vàng da được chỉ định ở những trường hợp viêm đường mật và tăng billirubin máu tác động đến tình trạng đông máu và lành vết thương.
Bù nước và điện giải
Đánh giá chức năng tim, thận, tình trạng phổi.
Các bước chi tiết phẫu thuật bao gồm:
Nội soi đánh giá di căn phúc mạc, di căn gan, bạch huyết, mạch máu hay xâm lấn cơ quan lân cận.
Phẫu thuật, sinh thiết lõi hoặc FNA là những phương pháp để chẩn đoán xác đinh giải phẫu bệnh trong 90% trường hợp. Phẫu thuật cắt bỏ được thực hiện trong những trường hợp dựa vào phát hiện trước và trong phẫu thuật.
Khả năng có thể cắt bỏ dựa trên kinh nghiệm chủ quan và kỹ năng của phẫu thuật viên
Đặt ống cho ăn jejunostomy hay nasojejunal trong lúc chờ nối lại cho ăn qua đường ruột
Các phương pháp phẫu thuật:
Phẫu thuật cắt bỏ khối tá-tụy:
Trong phẫu thuật Whipple đầu tụy, một phần của ống dẫn mật, túi mật và tá tràng bị loại bỏ. Đôi khi một phần của dạ dày cũng có thể được gỡ bỏ. Sau khi loại bỏ các cấu trúc còn lại tuyến tụy, ống mật và ruột được khâu nối trở lại vào ruột và sẽ tiết trở lại dịch tiêu hóa vào ruột.
Phẫu thuật cắt bỏ khối tá-tụy bảo tồn môn vị:
Bảo tồn hoàn toàn môn vị và 1-2cm của phần đầu tiên tá tràng
Chế độ ăn uống:
Giải áp thông mũi dạ dày không được tiếp tục
Chế độ ăn uống lỏng thường vào ngày thứ 2-5 hậu phẫu
Vận động:
Nên đi lại từ ngày hậu phẫu đầu tiên
Đi lại sớm và vật lý trị liệu ngực giúp ngăn ngừa bệnh tật
Link http://emedicine.medscape.com/article/282920-overview
Chuyên Đề Tuần 3: U Quanh Bóng Vater
chuyên đề tuần 3: U quanh bóng Vater
05/04/2013 bởi thanhdiemlenguyen
CHUYÊN ĐỀ TUẦN 3 U QUANH BÓNG VATER (PERIAMOULLARY CANCER) 1. Gồm: U đầu tuỵ U đoạn cuối ống mật chủ U nhú Vater U tá tràng Trong đó, u đầu tuỵ chiếm tỷ lệ cao nhất, thấp nhất là u tá tràng (ví tá tràng là một cấu trúc của ruột non, nên tỷ lệ ung thư là khá thấp – có thể là do chu kỳ thay đổi lớp thượng bì của ruột non lag khá nhanh) 2. Nguyên nhân: VPC (Vater ampullary cancer) chưa rõ nguyên nhân, có thể là do yếu tố gen (di truyền) hoặc do yếu tố ngoại cảnh, như sử dụng rượu, chế độ ăn, tình trạng viêm nhiễm mạn tính, và những yếu tố khác ảnh hưởng đến việc hình thành khối u. 3. Bệnh học: VPC thường nhỏ khoảng 1 – 2 cm đường kính. Khối u thường mềm, bề mặt trơn nhẵn, sung huyết, hoại tử, thường tắc nghẽn nhưng hiếm khi tắc hoàn toàn. Tuy gồm 4 loại nhưng ví tính chất khá giống nhau, như bệnh cảnh lâm sàng,phương pháp chaanr đoán, phương pháp điều trị, nên thường được gọi chung là U quanh bóng Vater. 4. Triệu chứng chính: Chủ yếu là vàng da, đau bụng, sốt, sụt cân, gan to, túi mật to. 1. Vàng da: chiếm ¾ số BN đây là dấu hiệu sớm nhất của bệnh. Vàng da là do khối u chèn ép váo đường dẫn mật, gây chít hẹp rồi dẫn đến tắc mật, vàng da có thể tăng dần, hoặc tang giảm bấp bệnh, do việc khối u hoại tử tạo khe hẹp cho việc dẫn lưu mật xuống ống tiêu hoá. 2. Đau bụng: chỉ khoảng 70% BN có đau bụng, đau bụng là do khối u chèn ép vào ống mật chủ gây dãn, hay vào các cơ quan lân cận. BN thường chỉ đau mơ hồ, chứ không dữ dội như trong cơn đau quặn mật, đau thường lan ra sau lưng, tăng lên sau ăn, mỗi khi BN gập người chỉ có thể cảm thấy đỡ đau hơn. Nếu đau tăng dần thì có thể khối u chèn ép vào đám rối thần kinh tạng hoặc vào khoang sau phúc mạc. Nếu BN không đau bụng, ta có thể nghĩ ngay đến VPC vì thường tắc mật do sỏi hay giun chui có cơn đau quặn mật rất điển hình. 3. Sốt: BN thường sốt từng con, sốt là do tình trạng hoại tử khối u, nhiễm trùng đường mật hoặc túi mật. Thường BN sốt cao, tăng bạch cầu, thậm chí shock. Lâm sàng cso thể nhầm lẫn với Nhiễm trùng đường mật, Sỏi túi mật. 4. Sụt cân, mệt mỏi, chán ăn: đây là những triệu chứng của tình trạng cận ung. 5. Buồn nôn: chiếm 37% 6. Gan to, túi mật to: do tắc nghẽn đường mật, mật ứ lại trong gan, túi mật làm gan và túi mật căng to. Thường gan to, cứng, trơn láng. Túi mật có thể sờ chạm. 7. Thiếu mật, dịch tuỵ: gây rối loạn tiêu hoá, BN kém hấp thu cũng như tiêu hoá thức ăn, BN có các triệu chứng như mất vị giác, chướng bụng, mệt mỏi, tiêu chảy, phân nhầy mỡ (phân sống), sụt cân. 8. Thiếu máu: do việc hoại tử khối u gây chảy máu rỉ rả, thường có máu trong phân, gọi là tình trạng thiếu máu thứ phát. 9. Ngứa: việc muối mật qua quá trình dài đi vào máu, sẽ tích trữ dưới mô dưới da, có thể kích thích thần kinh gây ngứa. 10. Nước tiểu vàng, phân bạc màu: là do tình trạng ứ mật, mật không xuống được ống tiêu hoá.
5. Chẩn đoán: Việc chẩn đoán chính xác trên lâm sàng còn nhiều khó khăn, thậm chí khi sử dụng CT-Scans hay ERCP cũng rất khó phân biệt giữa 4 loại u. Vì thế việc sinh thiết khối u để làm giải phẫu bệnh là cần thiết để xác định TB gây u.
6. Điều trị; Hiện tại điều trị vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Phương pháp hay sử dụn hiện tại là cắt bỏ toàn bộ khối tá tuỵ (phương pháp Wipple), tuy nhiên biến chứng của phương pháp này cũng còn khá cao (tử vong, rò tuỵ…) Link:http://health.wikipilipinas.org/index.php?title=Periampullary_cancerhttp://en.uuuwell.com/mytag.php?id=8420
Chuyên Đề Tuần 2: Ung Thư Niệu Đạo
Ung thư niệu đạo là một dạng ung thư hiếm gặp ở niệu đạo của cả nam lẫn nữ, chiếm khoảng 1-2% các bệnh ung thư đừong tiết niệu. Ung thư niệu đạo ảnh hửong đến nữ giới nhiều hơn nam giới. Cho đến nay, số ngừoi đuợc chẩn đoán mắc bệnh này hàng năm vẫn ổn định. Hầu hết bệnh nhân luôn có những triệu chứng điển hình, một số ít lại không.
Niệu đạo là một ống rỗng cho phép nước tiểu đi từ các cơ quan lưu trữ, bàng quang đến khi sẵn sàng được thải ra ngoài cơ thể. Ở nam, niệu đạo dài khoảng 20cm, đi qua tuyến tiền liệt và dương vật trước khi mở ra ngoài ở đầu dương vật. Ở phụ nữ, niệu đạo dài khoảng 4cm và mở ra ngoài ngay phía trên cửa âm đạo
Niệu đạo gồm các biểu mô đừong niệu đạo. Ở cả nam và nữ có một số tuyến nằm dọc theo chều dài niệu đạo. Một mạng lưới hỗ trợ gồm mô liên kết, sợi chun, sợi cơ và mạch máu bao quanh niệu đạo
Phân loại:
Có nhiều loại ung thư khác nhau bắt nguồn từ các tế bào dòng niệu đạo. Những bệnh ung thư được đặt tên theo các tế bào trở thành ác tính (tế bào bị ung thư):
Ung thư tế bào biểu mô lát tầng là phổ biến nhất. Nó hình thành trong các tế bào ở một phần niệu đạo gần bàng quang của phụ nữ, và trong niêm mạc của niệu đạo dương vật ở nam giới
Ung thư tế bào biểu mô chuyển tiếp hình thành ở khu vực gần đường mở vào niệu đạo ở phụ nữ, và ở phần niệu đạo đi qua tuyến tiền liệt ở nam giới
Ung thư biểu mô tuyến hình thành trong các tuyến dọc niệu đạo ở cả 2 giới
Nguyên nhân
Nguyên nhân chính xác vẫn chưa được biết. Tuy nhiên có những yếu tố nguy cơ sau đây:
Tiền căn ung thư bàng quang, ung thư niệu đạo đã được điều trị
Nhiễm virus HPV
Có điều kiện cho viêm và nhiễm trùng mãn tính như ệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs), nhiễm trùng đường tiết nệu (UTIs)
Trên 60 tuổi
Là phụ nữ da trắng
Sinh thiết mô là cần thiết để chẩn đoán ung thư niệu đạo. Rất khó để thực hiện quy trình này khi gây tê tại chỗ, vì vậy bệnh nhân thường được hẹn trở lại để làm sinh thiết. Khi gây mê hoàn toàn hoặc gây tê khu vực, các bác sĩ niệu khoa sẽ sinh thiết bất kỳ khu vực khả nghi được xác định. Một số bệnh nhân cũng có thể yêu cầu một kỹ thuật sinh thiết như đâm kim qua da hoặc âm đạo vào phần niệu đạo tăng trưởng. Các mô sinh thiết sau đó được gửi đến các bác sĩ giải phẫu bệnh để kiểm tra dưới kính hiển vi để xác định chẩn đoán. Trước khi bệnh nhân tỉnh dậy từ gây mê, bác sĩ niệu khoa sẽ thực hiện một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng để xác định mức độ khu trú của khối u.
Khi ung thư niệu đạo được tìm thấy, mức độ của bệnh được phân loại dựa trên mức độ xâm nhập của các khối u vào các mô xung quanh niệu đạo. Kiểm tra sẽ được thực hiện để tìm ra nếu các tế bào ung thư đã lan đến các bộ phận khác của cơ thể. CT scan bụng và xương chậu có thể được thực hiện để kiểm tra các hạch bạch huyết thu thập từ hệ thống thải nước từ niệu đạo. MRI có thể được thực hiện để kiểm tra mức độ khu trú của khối u. Chụp X-quang ngực thường được thực hiện để đảm bảo rằng khối u vẫn chưa lan đến phổi, và bệnh nhân có thể yêu cầu scan xương để tìm ung thư di căn xương. Nếu ung thư niệu đạo được phân loại như ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp, bệnh nhân sẽ được làm các cận lâm sang kiểm tra màng thận và niệu quản để đảm bảo không có các mặt khác của ung thư.
Ở nam giới, một phần của niệu đạo gần bàng quang và tuyến tiền liệt có nhiều khả năng có nguồn gốc từ các tế bào dòng đường tiết niệu, trong khi một phần của niệu đạo bên trong dương vật có nhiều khả năng có nguồn gốc từ các tế bào giống như da (tế bào biểu mô lát tầng), sự khác biệt này có thể ảnh hưởng tới cách điều trị bệnh.
Các xét nghiệm và thủ tục sau đây có thể được sử dụng:
Khám lâm sàng và tiền căn: Kiểm tra dấu hiệu sức khỏe, bao gồm kiểm tra các dấu hiệu của bệnh, như khối u hay bất cứ điều gì khác có vẻ bất thường. Tiền căn những thói quen của bệnh nhân và bệnh tật trong quá khứ và phương pháp điều trị cũng sẽ được thực hiện.
Phòng xét nghiệm thực hiện kiểm tra mẫu mô, máu, nước tiểu, hoặc các chất khác trong cơ thể. Các xét nghiệm này giúp chẩn đoán bệnh, kế hoạch và kiểm tra điều trị, hoặc theo dõi bệnh.
Xét nghiệm nước tiểu dưới kính hiển vi để kiểm tra các tế bào bất thường.
Phân tích nước tiểu: Một thử nghiệm để kiểm tra màu sắc của nước tiểu và thành phần của nó, chẳng hạn như đường, máu, protein, và các tế bào bạch cầu.
Thăm khám trực tràng: Bác sĩ hoặc y tá sẽ đưa một ngón tay đeo găng bôi trơn vào phần dưới của trực tràng để kiểm tra xem có khối u hay bất cứ gì khác thường. Thủ tục này có thể được thực hiện trong khi bệnh nhân đang được gây mê.
Kiểm tra vùng chậu: thăm khám âm đạo, cổ tử cung, tử cung, ống dẫn trứng, buồng trứng, và trực tràng. Bác sĩ sẽ đưa một hoặc y tá đưa một hoặc hai ngón của một bàn tay đã được đeo găng và bôi trơn vào âm đạo và đặt bàn tay khác trong vùng bụng dưới để cảm nhận kích thước, hình dạng và vị trí của tử cung và buồng trứng. Mỏ vịt cũng được đưa vào âm đạo và các bác sĩ hoặc y tá nhìn vào âm đạo và cổ tử cung để tìm dấu hiệu của bệnh. Điều này có thể được thực hiện trong khi bệnh nhân đang được gây mê.
Soi bàng quang: Một thủ tục để nhìn vào bên trong niệu đạo và bàng quang để kiểm tra các khu vực bất thường. Một ống nội soi được đưa vào thông qua niệu đạo vào bàng quang. Mẫu mô có thể được làm sinh thiết.
Sinh thiết: Việc loại bỏ các tế bào hoặc mô từ niệu đạo, bàng quang, và đôi khi cả tuyến tiền liệt, vì vậy chúng có thể được xem dưới kính hiển vi bởi bác sĩ giải phẫu bệnh để kiểm tra các dấu hiệu của bệnh ung thư.
Có những lựa chọn điều trị cho tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán với bệnh ung thư niệu đạo. Các tùy chọn này có thể được chia thành ba loại: phẫu thuật, xạ trị và hóa trị.
Tiên luợng:
Mặc dù điều trị tích cực bằng hóa trị, xạ trị và phẫu thuật, sự tái phát của ung thư niệu đạo sau điều trị không phải là không phổ biến. Vì lý do này, bệnh nhân với tình trạng này đòi hỏi theo dõi lâu dài. Theo dõi thường đòi hỏi có kiểm tra tổng quát, sinh hóa, CT scan và X quang ngực mỗi 6 tháng đến 1 năm. Chỉ với phát hiện sớm tái phát và điều trị kịp thời, thích hợp những trường hợp như vậy mới có thể kéo dài sự sống
Tiên lượng (cơ hội phục hồi) phụ thuộc vào những điều sau đây:
Các giai đoạn và kích thước của ung thư (cho dù đó là khu trú hay đã di căn)
Trường hợp ung thư được hình thành đầu tiên trong niệu đạo.
Thể trạng của bệnh nhân.
Ung thư đã được chẩn đoán hoặc đã tái phát trở lại.
Lựa chọn điều trị phụ thuộc vào những điều sau đây:
Các giai đoạn của ung thư và nơi nó đang ở trong niệu đạo.
Quan hệ tình dục của bệnh nhân và thể trạng.
Ung thư đã được chẩn đoán hoặc đã tái phát.
(Nguồn:
http://www.webmd.com/cancer/tc/urethral-cancer-treatment-patient-information-nci-pdq-general-information-about-urethral-cancer
http://www.urologyhealth.org/urology/index.cfm?article=65 )
Chẩn Đoán Và Điều Trị Ung Thư Quanh Bóng Vater
Bài viết được viết bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương- Bác sĩ nội soi tiêu hóa – Khoa Khám bệnh & Nội khoa – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park Ung thư bóng Vater là một trong các bệnh lý ung thư đường tiêu hóa hiếm gặp nên việc chẩn đoán còn gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra nguyên nhân gây u quanh bóng Vater mà chỉ dựa vào một số triệu chứng điển hình để xác định giai đoạn bệnh. Nếu u quanh bóng Vater được phát hiện và điều trị sớm sẽ giúp bệnh nhân khỏi một cuộc mở lớn và đem lại chất lượng cuộc sống tốt hơn.
1. Bóng Vater ở vị trí nào trong cơ thể?
Bóng Vater hay còn gọi là nhú tá lớn, nằm ở phần giữa của đoạn thứ 2 (D2) tá tràng, đây là nơi đổ của dịch mật và dịch tụy vào lòng tá tràng, giúp tiêu hóa thức ăn.
2. Định nghĩa u quanh bóng Vater
U quanh bóng vater là những u xuất nguồn từ những phần quanh bóng vater. Chúng có thể xuất nguồn từ tụy, tá tràng, phần xa của ống mật chủ hoặc những cấu trúc của phức hợp nhú. Trong đó, u đầu tuỵ chiếm tỷ lệ cao nhất, thấp nhất là u tá tràng (vì tá tràng là một cấu trúc của ruột non, nên tỷ lệ ung thư là khá thấp, có thể là do chu kỳ thay đổi lớp thượng bì của ruột non là khá nhanh)
3. Nguyên nhân u quanh bóng Vater
Hiện tại, các nhà khoa học vẫn chưa rõ nguyên nhân của các u quanh bóng Vater, có thể là do yếu tố gen (di truyền) hoặc do yếu tố ngoại cảnh như sử dụng rượu, chế độ ăn, tình trạng viêm nhiễm mạn tính và những yếu tố khác ảnh hưởng đến việc hình thành khối u.
Tuy gồm 4 loại nhưng vì tính chất khá giống nhau như bệnh cảnh lâm sàng, phương pháp chẩn đoán, phương pháp điều trị, nên thường được gọi chung là u quanh bóng Vater.
4. Triệu chứng lâm sàng của u quanh bóng Vater
Không có triệu chứng đặc hiệu cho bệnh lý này. Giai đoạn đầu, hầu như bệnh không có triệu chứng. Theo đó, triệu chứng chủ yếu là vàng da, đau bụng, sốt, sụt cân, gan to, túi mật to,… Cụ thể:
Vàng da: chiếm 3⁄4 số bệnh nhân, đây là dấu hiệu sớm nhất của bệnh. Vàng da là do khối u chèn ép vào đường dẫn mật, gây chít hẹp rồi dẫn đến tắc mật, vàng da có thể tăng dần, hoặc lúc tăng lúc giảm, do việc khối u hoại tử tạo khe hẹp cho việc dẫn lưu mật xuống ống tiêu hoá.
Đau bụng: chỉ khoảng 70% bệnh nhân có đau bụng, là do khối u chèn ép vào ống mật chủ gây dãn, hay vào các cơ quan lân cận. Bệnh nhân thường chỉ đau mơ hồ, chứ không dữ dội như trong cơn đau quặn mật, cơn đau thường lan ra sau lưng, tăng lên sau ăn, mỗi khi bệnh nhân gập người chỉ có thể cảm thấy đỡ đau hơn. Nếu đau tăng dần thì có thể khối u chèn ép vào đám rối thần kinh tạng hoặc vào khoang sau phúc mạc.
Sốt: bệnh nhân thường sốt từng cơn, sốt là do tình trạng hoại tử khối u, nhiễm trùng đường mật hoặc túi mật. Theo đó, bệnh nhân thường sốt cao, tăng bạch cầu, thậm chí sốc. Lâm sàng có thể nhầm lẫn với nhiễm trùng đường mật, sỏi túi mật.
Sụt cân, mệt mỏi, chán ăn: Đây là những triệu chứng của tình trạng cận ung.
Buồn nôn: chiếm 37%
Gan to, túi mật to: Do tắc nghẽn đường mật, mật ứ lại trong gan, túi mật làm gan và túi mật căng to, cứng, trơn láng. Túi mật có thể sờ chạm.
Thiếu mật, dịch tụy: Gây rối loạn tiêu hoá, kém hấp thu cũng như tiêu hoá thức ăn, bệnh nhân có các triệu chứng như mất vị giác, chướng bụng, mệt mỏi, tiêu chảy, phân nhầy mỡ (phân sống), sụt cân.
Thiếu máu: Do việc hoại tử khối u gây chảy máu rỉ rả, thường có máu trong phân, gọi là tình trạng thiếu máu thứ phát.
Ngứa: Việc muối mật qua quá trình dài đi vào máu, sẽ tích trữ tại mô dưới da, có thể kích thích thần kinh gây ngứa.
Nước tiểu vàng, phân bạc màu: là do tình trạng ứ mật, mật không xuống được ống tiêu hoá.
5. Chẩn đoán ung thư quanh bóng Vater
Việc chẩn đoán chính xác bệnh ung thư quanh bóng Vater trên lâm sàng còn nhiều khó khăn, nhất là với các u vùng đầu tụy, thậm chí khi sử dụng CT-SCan hay ERCP cũng rất khó phân biệt giữa 4 loại u. Vì thế việc sinh thiết khối u để làm giải phẫu bệnh là cần thiết để xác định tế bào gây u.
Cho đến nay, nội soi tiêu hóa được xem là có giá trị nhất để chẩn đoán bệnh lý này. Nội soi cho thấy được hình ảnh quanh bóng Vater, D2 tá tràng, sinh thiết tổn thương nghi ngờ để làm mô bệnh học.
Ngày nay, với những tiến bộ của siêu âm qua nội soi, kỹ thuật sinh thiết u đầu tụy xuyên thành tá tràng qua máy siêu âm nội soi giúp các bác sĩ chẩn đoán được các bệnh lý u vùng đầu tụy về mặt hình ảnh và mô học.
6. Điều trị ung thư quanh bóng Vater
6.1. Giai đoạn sớm: Cắt u quanh bóng Vater bằng phương pháp EMR (Kỹ thuật cắt niêm mạc)
Đối với các tổn thương quanh bóng Vater còn khu trú ở lớp niêm mạc, chưa xâm lấn xuống lớp dưới niêm, việc cắt trọn tổn thương u, bảo tồn chức năng cơ quan, giúp bệnh nhân tránh được một cuộc mổ lớn, nâng cao chất lượng sống cho người bệnh. Tuy nhiên, kỹ thuật này đòi hỏi phải phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm, kỹ thuật thuần thục, vì nếu không cẩn thận sẽ gây các biến chứng chảy máu, thủng tá tràng, viêm tuỵ cấp….
6.2. Giai đoạn muộn
Khi u ở giai đoạn đã xâm lấn xuống lớp dưới niêm, phẫu thuật là chọn lựa ưu tiên. Phương pháp hay sử dụng hiện tại là cắt bỏ toàn bộ khối tá tuỵ (phương pháp Wipple), tạo hình lại ống tiêu hóa trên với các miệng nối dạ dày – ruột non, ống mật chủ – ruột non. Tuy nhiên, biến chứng của phương pháp này cũng còn khá cao (tử vong, rò tuỵ, chảy máu, hẹp miệng nối…)
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park có trang bị hệ thống máy nội soi tiêu hóa hiện đại nhất của hãng Olympus với dàn máy nội soi Olympus CLV 190, một trong những hãng máy tốt nhất hiện nay, hệ thống máy CT Scan và MRI đa lát cắt, độ phân giải cao, với đội ngũ bác sĩ có nhiều kinh nghiệm về chẩn đoán các bệnh lý ung thư sớm ống tiêu hóa, ung thư quanh bóng Vater, ung thư mật tụy, được đào tạo qua nhiều lớp tập huấn trong và ngoài nước về các bệnh lý ung thư đường mật tụy.
Ưu điểm của các máy nội soi này là ngoài nội soi ánh sáng trắng thông thường, hệ thống còn có chức năng dải tần ánh sáng hẹp (NBI), nội soi phóng đại, với hình ảnh nội soi NBI có độ phân giải và độ tương phản cao nên dễ dàng hơn phát hiện và sàng lọc và chẩn đoán ung thư tiêu hóa ở giai đoạn sớm. Khi bệnh ung thư được phát hiện ở giai đoạn sớm, tùy theo tính chất tổn thương, sẽ được cắt theo phương pháp cắt niêm mạc (EMR), hoặc cắt bóc tách dưới niêm mạc (ESD) qua nội soi ống mềm mà không phải trải qua phẫu thuật. Nếu phát hiện u ở giai đoạn đã xâm lấn, bệnh nhân sẽ được hội chẩn và điều trị với các chuyên gia đầu ngành về ngoại khoa, xạ trị, hóa trị, đem lại hướng điều trị tốt nhất cho. Không chỉ vậy, nhằm đảm bảo vô trùng các máy nội soi bệnh viện còn trang bị thêm máy rửa dây soi tự động và hệ thống lọc nước RO.
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện hàng đầu cả nước về thăm khám, chẩn đoán và điều trị các bệnh về ung thư tiêu hóa.
Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đăng ký trực tuyến TẠI ĐÂY.
Bạn đang xem bài viết Chuyên Đề Ung Thư Bóng Vater Part 2 trên website Brandsquatet.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!