Xem Nhiều 5/2023 #️ Nhiễm Herpes Lan Tỏa Toàn Thân – Eczema Herpesticum # Top 10 Trend | Brandsquatet.com

Xem Nhiều 5/2023 # Nhiễm Herpes Lan Tỏa Toàn Thân – Eczema Herpesticum # Top 10 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Nhiễm Herpes Lan Tỏa Toàn Thân – Eczema Herpesticum mới nhất trên website Brandsquatet.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Da là cơ quan có diện tích lớn nhất trong cơ thể, lại phải tiếp xúc trực tiếp với môi trường bên ngoài và là “môi trường sống” của nhiều loài vi sinh vật, bao gồm cả vi khuẩn, virus, nấm, kí sinh. Khi gặp điều kiện thuận lợi, da bị các virus, vi khuẩn tấn công dẫn đến nhiều bệnh nguy hiểm. Nhất là trên các bệnh nhân suy giảm miễn dịch như mắc các bệnh mãn tính: HIV, đái tháo đường, tăng huyết áp,.. bệnh nhân đang phải dùng các thuốc ức chế miễn dịch, rất dễ nhiễm các virus từ môi trường sống và có thể gây nguy hiểm tính mạng.

Eczema Herpesticum là bệnh da do virus Herpes Simplex 1 ( HSV1) gây nên, lây truyền qua đường tiếp xúc trực tiếp với dịch, chất tiết từ người bị bệnh. Bệnh thường biểu hiện ở vùng da hở như: đầu mặt, cổ, một số trường hợp nặng tổn thương xuất hiện trên diện rộng lan tỏa khắp cơ thể. Thời gian ủ bệnh thường 1-2 tuần sau khi tiếp xúc với virus gây bệnh. Nhiễm eczema herpesticum ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch rất thường gặp, và triệu chứng thường nặng với tổn thương da lan tỏa toàn thân, sốt cao liên tục, nổi hạch và có thể gặp biến chứng viêm màng não đe dọa tính mạng người bệnh nếu không được điều trị kịp thời bằng thuốc kháng virus.

Bệnh viện da liễu Trung Ương đang tiếp nhận điều trị một bệnh nhân nhiễm  Eczema Herpesticum có nhiều bệnh nền như: đỏ da toàn thân, pemphigus, lao phổi đang điều trị. Trường hợp bệnh nhân nam, 73 tuổi với chẩn đoán Đỏ da toàn thân/ Pemphigus – Lao phổi đang điều trị 2 tuần nay tại khoa bệnh da nam giới, các triệu chứng về da đang cải thiện tốt, bệnh nhân có chỉ định ra viện. Khoảng 1 ngày nay, bệnh nhân xuất hiện các tổn thương mụn nước, vết trợt mới rải rác vùng cẳng chân, sau lan ra thân mình, sốt nhẹ, Qua thăm khám và xét nghiệm,  bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm Eczema herpesticum – một dạng nhiễm virus herpes lan tỏa toàn thân.

Hình 1: Tổn thương trợt nông 0.5 cm, rải rác vùng ngực trên nền da đỏ thẫm của bệnh đỏ da toàn thân

Hình 2: Tổn thương trợt nông hình tròn 0.5 cm, rải rác vùng cổ, ngực trên nền da đỏ thẫm của bệnh đỏ da toàn thân

Theo chúng tôi Dương Thị Lan, phó khoa Bệnh da nam giới – Bệnh viện da liễu Trung ương: bệnh nhân cao tuổi có nhiều bệnh nền nặng như: mắc lao phổi, nhiễm trùng huyết, da đang tổn thương do mắc đỏ da toàn thân/ pemphigus vảy lá, bệnh nhân đã bội nhiễm virus herpes từ những người khỏe mạnh xung quanh và có triệu chứng rất nặng: sốt cao liên tục, các vết trợt , vảy tiết rải rác khắp tay chân thân mình. Bệnh nhân đã được các bác sĩ tích cực điều trị với thuốc kháng virus acyclovir truyền tĩnh mạch và chăm sóc tổn thương da tại chỗ.

BSCK.II Dương Thị Lan khuyến cáo các bệnh nhân cao tuổi, suy giảm miễn dịch, mắc các bệnh da mạn tính như viêm da cơ địa, đỏ da toàn thân, pemphigus,.. rất dễ nhiễm virus herpes, tiến triển thành bệnh eczema herpesticum và các biến chứng nghiêm trọng khác. Vì vậy, các bệnh nhân mắc bệnh da mạn tính cần tuân thủ điều trị theo bác sĩ chuyên khoa, giữ gìn và nâng cao sức đề kháng của cơ thể, đến khám ngay tại cơ sở y tế gần nhất nếu có các triệu chứng bất thường.

Bài viết: Khoa bệnh da nam giới

Đăng bài: Phòng CTXH

Sự Lan Tỏa Của Sh

Trong hai năm, hơn 1500 bệnh nhân bỏng đã tìm đến Phòng khám đa khoa Sinh Hậu, phố Bà Triệu để được chữa trị. Nhiều người trong số họ sau thời gian điều trị đã bình phục, trở về mà không phải mang di chứng cũng như bị ảnh hưởng đến thẩm mỹ. Vậy điều gì đã làm nên sự kì diệu ấy?

Tiến sỹ Y khoa Nhâm Văn Sinh theo dõi tiến triển ở bệnh nhân bỏng

Chúng tôi đến phòng khám khi trong phòng lúc này còn có 3 bệnh nhân bỏng đang được chữa trị. Họ đều rất trẻ. Hai người trong số họ đến từ thị xã Phúc Yên, một người đến từ huyện Bình Xuyên, có người bỏng chiếm 30% diện tích cơ thể. Được tận mắt chứng kiến những bệnh nhân bỏng, chúng tôi không khỏi ái ngại. Chỉ nhìn thôi, cũng cảm nhận thấy họ đã và đang phải trải qua những phút giây đau đớn như thế nào, nhất là về tâm lý, đặc biệt với phụ nữ, điều này thật khó khăn. Vậy mà, khác hẳn với suy nghĩ của chúng tôi, các bệnh nhân không hề bi quan mà tràn đầy niềm tin.

Ở phòng khám được 8 ngày, chị Ngô Thị Hải ở xã Nam Viêm, thị xã Phúc Yên cho biết: “Tôi bị bỏng do nướng cá mực. Khi thấy cá chưa chín, tôi đổ thêm cồn vào, vậy là ngọn lửa bùng to và phả thẳng vào mặt, ngực và chân. Tại vùng bị bỏng, tôi cảm thấy nóng rát. Được các bác sỹ tại phòng khám đa khoa Sinh Hậu nhiệt tình chăm sóc, qua 8 ngày điều trị bằng thuốc SH- 91 và dùng kháng sinh, đến nay vết bỏng của tôi đang dần se lại. Tôi không còn cảm thấy đau như mấy hôm đầu. Tôi mong mọi người khi sử dụng lửa để nấu nướng nên cẩn thận và không vội vàng để tránh được những tai nạn đáng tiếc có thể xảy ra”.

Giống như chị Hải, anh Ngô Đức Nam ở xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên cũng bị bỏng do nướng mực. Anh kể: “Được người nhà đi biển về cho mấy con mực nên tôi hăng hái mua cồn về nướng. Khi lửa chưa cháy hết, tôi tiếp tục đổ cồn và lửa đã bắt vào lọ cồn gây nổ. Vì quá bất ngờ, tôi đã không kịp phản ứng nên cũng bị bỏng ở phần chân. Đến phòng khám đa khoa Sinh Hậu, tôi được đắp thuốc và dùng kháng sinh. Sau đó ba mươi phút cảm giác đau rát đã giảm bớt. Hiện nay, vết bỏng đang dần phục hồi, tôi cũng không còn cảm thấy đau nữa”.

Để rõ hơn về bệnh bỏng cũng như quá trình điều trị bệnh này, chúng tôi có cuộc trò chuyện với người bác sĩ đã được không ít bệnh nhân nhắc đến với sự kính trọng, ngưỡng mộ. Bằng trí tuệ của mình, ông đã sáng chế ra loại thuốc làm dịu những cơn đau, giảm tỉ lệ tử vong, tỉ lệ tàn phế cho nạn nhân bỏng, trả lại vẻ đẹp cho bệnh nhân đồng thời cũng góp phần làm giảm chi phí trong chữa trị. Ông chính là Tiến sĩ Y khoa Nhâm Văn Sinh, tác giả của loại thuốc chữa bỏng SH- 91 với không ít đặc tính hữu hiệu.

Mở cho chúng tôi xem những bức ảnh, vidieo clip ghi lại quá trình chữa trị của các bệnh nhân bỏng, ông cho biết, bỏng là tai nạn thường gặp trong sinh hoạt, lao động, sản xuất, trong đó bỏng do sinh hoạt chiếm khoảng 65 %; để lại di chứng nặng nề cho bệnh nhân về thẩm mỹ, chức năng, tâm lý. Tác nhân gây bỏng do nước sôi, lửa, điện, cồn. Từ năm 2012- 2014, Phòng khám đa khoa Sinh Hậu tiếp nhận 1547 trường hợp bỏng, riêng tháng 6 và 8, có 38 trường hợp bị bỏng do cồn, 7 người trong đó bỏng chiếm trên 30% diện tích cơ thể. Nguyên nhân bỏng cồn đều do thiếu kinh nghiệm trong khi nướng mực. Thấy mực chưa chín, người nướng thường đổ thêm cồn vào, trong khi đó, dưới những con mực, vẫn còn lửa leo lét cháy, khó phát hiện, chính vì vậy, ngọn lửa đã bùng lên. Nhiệt lượng của cồn lên tới 15000 C, với sức nóng như vậy, nó đã gây ra bỏng cho chính người nướng cồn. Các bệnh nhân bỏng cồn thường bị bỏng toàn thân, đa số ở vùng mặt.

Đau đớn, xuất tiết huyết tương và nhiễm khuẩn được xuất hiện ngay sau chấn thương bỏng, trong đó đau và xuất tiết huyết tương là các tác nhân nguy hiểm nhất gây ra các biến loạn chức năng tại chỗ và toàn thân, là nguyên nhân gây ra Shock và tử vong ở những bỏng sâu, diện rộng.

Các thuốc chữa vết thương bỏng hiện nay thường chỉ có tác dụng kháng khuẩn. Trong khi đó đau và xuất tiết dịch là hai yếu tố diễn biến nguy hiểm nhất trong bỏng thì hiện nay theo ông chưa có loại thuốc nào có tác dụng ức chế, ngăn cản tác nhân gây đau và gây xuất tiết dịch sau chấn thương bỏng.

Được thừa kế từ bài thuốc gia truyền và nghiên cứu mở rộng, SH- 91 có tác dụng: Giảm đau ngay sau ít phút đắp thuốc và dịu êm trong cả quá trình điều trị. Hiệu quả giảm đau của SH- 91 đạt mức không cần phải sử dụng đến thuốc an thần giảm đau ở bệnh nhân bỏng có diện tích bỏng dưới 40% diện tích cơ thể ( bỏng độ II, độ III ). Giảm xuất tiết dịch: Dịch tiết giảm, viêm nề giảm. Giảm tiết dịch đạt ở mức bỏng dưới 60 % diện tích cơ thể (bỏng độ II, độ III ) trong hồi sức nuôi dưỡng không phải sử dụng đến máu và dịch thể thay thế máu (chỉ sử dụng dung dịch đẳng chương ) mà sức khỏe hồi phục nhanh, vết bỏng liền khỏi sớm. Giảm viêm mủ giả mạc: Hiếm khi có mủ giả mạc trên nền tổn thương bỏng khi thay băng ( bỏng độ II, độ III ). Giảm số lượng và chủng loại vi khuẩn: Trong nghiên cứu đối chứng so sánh với thuốc chữa bỏng Silver Sulfadiazin 1% (Thuốc do hãng Marion Hoa Kỳ sản xuất) SH- 91 có tác dụng làm giảm số lượng và chủng loại vi khuẩn tương đương. Đặc biệt SH- 91 có tác dụng mạnh với trực khuẩn mủ xanh (P.aeruginosa) loại vi khuẩn gây tử vong hàng đầu ở nhiễm trùng huyết trong bỏng và SH- 91 không có tác dụng phụ.

Với tác dụng giảm đau, giảm tiết tịch tại vết bỏng, SH -91 góp phần làm giảm thời gian và cường độ shock, cắt shock sớm làm giảm các biến chứng tại chỗ và toàn thân do Shock gây ra, giảm chi phí cho hồi sức chống shock, giảm tỷ lệ tử vong, giảm di chứng sức khỏe phục hồi nhanh vết bỏng liền khỏi sớm.

Đặc biệt trong điều trị thuốc SH- 91 vẫn giữ lại lớp biểu bì hoại tử sau bỏng, chỉ tháo rạch nước vòm phòng đắp SH- 91 ngoài lớp biểu bì. Lớp biểu bì không bị phân hủy tan rữa. Sau 7- 8 ngày bóc bỏ lớp biểu bì nền tổn thương bỏng không có mủ giả mạc, nhẵn bóng, nếu đắp các loại thuốc khác thường chỉ sau 2- 3 ngày lớp biểu bì bị phân hủy tan rữa, làm môi trường thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập.

Qua những điều được nghe, được chứng kiến ở phòng khám, qua video clip mô tả lại chi tiết quá trình điều trị của các bệnh nhân, sự tiến triển của vết thương bỏng từ loại thuốc SH- 91, chúng tôi tin rằng, với công dụng hữu hiệu ấy, SH- 91 thực sự đã mang lại cho bệnh nhân bỏng vẻ đẹp ban đầu và sự lan tỏa của nó ngày càng mở rộng.

Bài, ảnh Bạch Dương

Nhiễm Herpes Sinh Dục Điều Trị Và Điều Trị Dự Phòng

 1. DIỄN BIẾN TỰ NHIÊN CỦA QUÁ TRÌNH LÂY NHIỄM      Nhiễm HSV sinh dục là một bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục phổ biến trên thế giới. Hầu hết nhiễm herpes sinh dục do nhiễm HSV-2 nhưng nhiễm HSV-1 cũng gây ra những biểu hiện lâm sàng tương tự. Điều trị bằng thuốc kháng virus có thể rút ngắn thời gian xuất hiện các biểu hiện lâm sàng. Bệnh nhân không điều trị có thể dẫn tới các biến chứng và tỷ lệ tử vong cũng đáng kể. Bệnh thường tái phát và có thể điều trị dự phòng bằng các thuốc kháng virus. Các lần tái phát có thể không có triệu chứng hoặc triệu chứng không điển hình nhất là ở phụ nữ (dễ nhầm với nứt kẽ hoặc viêm da kích ứng vùng sinh dục). Hơn nữa, thời gian xuất hiện thương tổn trung bình của đợt tái phát ngắn hơn so với sơ nhiễm (10 so với 19 ngày) và thời gian phát tán virus cũng thấp hơn (2 so với 9 ngày) [5]. Sau cùng, điều trị bằng thuốc kháng virus không tiêu diệt được virus tiềm ẩn, không giảm được số lần và mức độ nặng của tái phát khi dừng thuốc.2. CÁC THUỐC KHÁNG VIRUS      Các thuốc kháng virus như acyclovir, famciclovir và valacyclovir cho thấy hiệu quả tương đương trong điều trị sơ nhiễm HSV cũng như làm giảm khả năng lây truyền của bệnh [6,7]. Famciclovir và valacyclovir có sinh khả dụng đường uống tốt hơn acyclovir. Thuốc bôi tại chỗ có hiệu quả đối với các thương tổn ở vùng rìa niêm mạc và không nên sử dụng [8]. Độ an toàn và khả năng dung nạp của cả 3 thuốc đều tốt.3. ĐIỀU TRỊ SƠ NHIỄM HSV      Sơ nhiễm HSV có thể khiến các biểu hiện trên lâm sàng dài hơn với thương tổn là các vết loét nặng, chúng ta nên điều trị bằng thuốc kháng virus cho tất cả các trường hợp sơ nhiễm HSV. Bắt đầu sử dụng các thuốc kháng virus sớm trong vòng 72 giờ sau khi xuất hiện thương tổn sẽ làm giảm thời gian bị bệnh cũng như mức độ trầm trọng của bệnh nhiều ngày cho tới nhiều tuần [9]. Hơn nữa, điều trị bằng các thuốc kháng virus còn làm giảm nguy cơ xuất hiện các biến chứng của sơ nhiễm như viêm màng não và rối loạn đám rối thần kinh cùng cụt [10].       So sánh hiệu quả điều trị sơ nhiễm HSV bằng famciclovir và acyclovir. Trong 3 thử nghiệm lâm sàng mù đôi có đối chứng với các liều famciclovir khác nhau (125, 250, 500 và 750mg) so với điều trị bằng acyclovir trong 5 hoặc 10 ngày trong số 951 bệnh nhân. Một phần ba trong số bệnh nhân đăng ký tham gia các thử nghiệm này nhiễm HSV tiên phát [12]. Famciclovir uống 3 lần/ngày và acyclovir 5 lần/ngày. So sánh thời gian phát tán virus, thời gian lành thương trung bình và thời gian cải thiện thể trạng giữa các nhánh uống famciclovir và acyclovir trong 10 ngày cho thấy famciclovir liều 125mg không hiệu quả bằng các liều khác.Valacyclovir so với acyclovir – Valacyclovir và acyclovir có hiệu quả tương đồng, trong khi số lần uống valacyclovir ít hơn acyclovir. Trong một thử nghiệm đa trung tâm so sánh, đối chứng, 643 bệnh nhân người lớn sơ nhiễm HSV sinh dục được chỉ định điều trị 10 ngày bằng acyclovir 200 mg, 5 lần/ngày hoặc valacyclovir 1000 mg 2 lần/ngày [13]. Người ta thấy không có sự khác biệt giữa 2 phác đồ trên đối với thời gian lành thương, thời gian đau, thời gian hết sạch triệu chứng và thời gian phát tán virus.Valacyclovir so với famcyclovir – Không có nghiên cứu nào trực tiếp so sánh hiệu quả của 2 loại thuốc này trong điều trị sơ nhiễm HSV sinh dục.Biến chứng của HSV – Có thể chúng ta sẽ cần đến các liệu pháp điều trị khác đường uống trong những trường hợp sơ nhiễm HSV sinh dục kết hợp với một số dấu hiệu lâm sàng nặng như:      – Các bệnh lý của thần kinh trung ương như viêm màng não vô khuẩn, viêm não hoặc viêm tuỷ cắt ngang;      – Viêm gan hoặc viêm thành phế nang;      – Nhiễm HSV lan toả.      Có thể chúng ta sẽ cần kéo dài liệu trình trị liệu đối với những bệnh nhân suy giảm miễn dịch do bệnh ở những bệnh nhân này thường trầm trọng hơn và kéo dài hơn.Điều trị triệu chứng ở bệnh nhân nhiễm HSV tiên phát – Bệnh nhân nhiễm HSV tiên phát có thể có những triệu chứng khá nặng tại chỗ như đau tại vết loét hoặc vùng cùng cụt. Điều trị bằng thuốc giảm đau hoặc hướng dẫn tắm rửa vệ sinh vùng sinh dục (tắm ngồi – Sitz baths) nhất là đối với phụ nữ đi tiểu khó, có nhiều vết loét sinh dục. Những bệnh nhân nữ phàn nàn tiểu tiện khó có thể đã xuất hiện nhiễm trùng đường tiết niệu thứ phát. Đặt thông tiểu trong những trường hợp này trong vài ngày, có khi đến hàng tuần, trước khi đặt có thể cho họ sử dụng thuốc giảm đau.Thời điểm bắt đầu điều trị – Bắt đầu điều trị khi nào cũng là yếu tố rất quan trọng để đạt được hiệu quả cải thiện lâm sàng một cách tối đa. Hầu hết các nghiên cứu đều đánh giá và khuyến cáo chúng ta nên bắt đầu sử dụng thuốc trong vòng 72 giờ sau khi xuất hiện các dấu hiệu trên lâm sàng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn nên cho bệnh nhân sử dụng thuốc kháng virus trong những trường hợp đến họ đến sau thời điểm trên.Tóm tắt điều trị nhiễm HSV sinh dục tiên phát – So với không điều trị gì thì điều trị bằng thuốc kháng virus đường uống giúp làm giảm đáng kể thời gian và mức độ của bệnh với những tác dụng không mong muốn của thuốc là tối thiểu. Do đó, chúng tôi khuyến cáo sử dụng thuốc kháng virus đường uống cho tất cả những trường hợp nhiễm HSV tiên phát không có biến chứng. Với bất kỳ loại thuốc nào trong 3 loại thuốc sẵn có tại tất cả các cơ sở điều trị, hiệu quả tương đương (14-17]. Valacyclovir là thuốc phải uống số lần ít nhất so với 2 loại khác trong khi acyclovir là loại rẻ nhất. Thời gian điều trị là 7 – 10 ngày. Chúng tôi đồng thuận với hướng dẫn điều trị của CDC năm 2015, khuyến cáo một trong ba phác đồ sau:      – Acyclovir 400mg 3 lần/1 ngày hoặc 200mg 5 lần/ngày hoặc      –  Famcyclovir 250mg 3 lần/ngày hoặc      – Valacyclovir 1000mg 2 lần/ngày.4. ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG TÁI PHÁTCác phương pháp điều trị dự phòng – Đối với những bệnh nhân tái nhiễm HSV sinh dục, các yếu tố chúng tôi cân nhắc để đưa ra chiến lược quản lý điều trị phù hợp bao gồm: tần suất tái phát, mức độ trầm trọng của bệnh và nguy cơ lây truyền virus cho bạn tình chưa nhiễm của họ. Thày thuốc và bệnh nhân cần phải biết, quá trình lây truyền virus diễn ra ngay cả khi không có triệu chứng. Một số lựa chọn cụ thể:      –  Điều trị dự phòng liên tục: Uống thuốc kháng virus hàng ngày, phương pháp này thường áp dụng cho những người hay tái phát và có bạn tình không nhiễm HSV;      –  Điều trị dự phòng gián đoạn: Bệnh nhân uống thuốc kháng virus ngay khi mới phát hiện các dấu hiệu tiền triệu của bệnh như ngứa, cảm cúm, tiểu khó;      –  Không can thiệp gì: áp dụng cho những người bệnh ít tái phát hoặc những người mắc bệnh nhẹ.So sánh giữa điều trị dự phòng liên tục và gián đoạn – Không nhiều số liệu so sánh 2 phương pháp này, mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm của nó.             Hiệu quả lâm sàng – Một thử nghiệm lâm sàng sử dụng acyclovir có đối chứng với giả dược trên 156 bệnh nhân hay tái phát (trên 6 lần/năm). So sánh điều trị dự phòng liên tục 400 mg 2 lần/ngày và dự phòng gián đoạn 200 mg 5 lần/ngày trong 5 ngày [18]. Kết quả cho thấy dự phòng liên tục có những ưu việt so với các phương pháp kia như sau:      – Tăng thời gian tái phát trung bình (280 ngày so với 28 ngày của phương pháp dự phòng gián đoạn và 23 ngày của phương pháp giả dược);      – Giảm số ngày trung bình bị bệnh trong tháng (0,32 so với 4,18 và 4,72).Chất lượng cuộc sống – Những ưu việt về chất lượng cuộc sống của phương pháp dự phòng liên tục cũng được thể hiện [19,20]. Điều này được thể hiện trong một nghiên cứu đa trung tâm, nhãn mở, ngẫu nhiên, hai nhánh, cắt ngang trên 225 bệnh nhân. Một nhánh điều trị dự phòng gián đoạn bằng valacyclovir 500 mg 2 lần/ngày trong 5 ngày so với nhánh kia 500 mg mỗi ngày. Bệnh nhân tái phát trung bình 6 lần/năm trước khi bắt đầu nghiên cứu. Kết quả như sau:      –  Nhóm điều trị dự phòng liên tục có tỷ lệ tái phát thấp hơn 78% so với nhóm dự phòng gián đoạn;      –  Không phát hiện biến cố sử dụng thuốc nào trong thời gian nghiên cứu 48 tuần;      – Trong số 202 người tham gia đủ 48 tuần nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhân thích hiệu quả của phương pháp dự phòng liên tục cao hơn phương pháp gián đoạn (72% so với 28%).Những vấn cần cân nhắc trước áp dụng phương pháp điều trị dự phòng:      – Tần suất tái phát của bệnh;      – Tuân thủ điều trị của bệnh nhân;      – Yếu tố tâm lý bệnh nhân;      – Độc tính của thuốc;      – Chi phí điều trị; Chúng tôi thống nhất với hướng dẫn điều trị dự phòng tái phát HSV sinh dục của CDC năm 2015 như sau:Phương pháp dự phòng gián đoạn:      – Acyclovir: 800 mg 3 lần/ngày trong 2 ngày hoặc 800 mg 2 lần/ngày trong 5 ngày hoặc 400 mg 3 lần/ngày trong 5 ngày;      – Famcyclovir: 1000 mg 2 lần 1 ngày duy nhất hoặc 125 mg 2 lần/ngày trong 5 ngày hoặc 500 mg 1 lần sau đó 250 mg 2 lần/ngày trong 2 ngày tiếp theo;      – Valacyclovir 500 mg 2 lần/ngày trong 3 ngày hoặc 1000 mg 1 lần/ngày trong 5 ngày.Phương pháp dự phòng liên tục:      – Acyclovir: 400 mg 2 lần/ngày;      – Famcyclovir: 250 mg 2 lần/ngày;      – Valacyclovir 500 mg 1 lần/ngày hoặc 1000 mg 1 lần/ngày. Chúng tôi ưa thích phác đồ valacyclovir 500 mg 1 lần/ngày hơn, với những bệnh nhân tái phát trên 10 lần/năm chúng tôi áp dụng phác đồ valacyclovir 1000 mg 1 lần/ngày; Liệu pháp điều trị dự phòng liên tục được khuyến cáo trong 6 năm, chúng ta nên tiến hành đánh giá lại việc sử dụng thuốc kháng virus điều trị dự phòng liên tục để tiên lượng trong bối cảnh chưa rõ về lợi ích – nguy cơ trong 6 năm đó.5. ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG LIÊN TỤC CHO CẶP BẠN TÌNH DỊ NHIỄM (Một người nhiễm HSV người còn lại không nhiễm – ND): Kính mời độc giả tìm đọc trong những chuyên đề chuyên biệt6. KHUYẾN CÁO ĐẶC BIỆT VỚI NGƯỜI NHIỄM HIV      Bệnh nhân nhiễm HIV có hệ miễn dịch suy giảm có thể có biểu hiện lâm sàng nhiễm HSV sinh dục dài hơn, nặng hơn người không nhiễm HIV. Điều trị bằng thuốc kháng HIV (ART) có thể cũng sẽ tác động trên HSV làm giảm mức độ trầm trọng của bệnh, giảm tần suất xuất hiện các triệu chứng thứ phát đường sinh dục. Tuy nhiên, các biểu hiện lâm sàng có thể nặng hơn ở giai đoạn mới bắt đầu sử dụng thuốc ART do cơ chế phục hồi miễn dịch [14].      Điều trị dự phòng liên tục hay gián đoạn bằng các thuốc chống virus như acyclovir, famciclovir hay valacyclovir có thể giảm các biểu hiện lâm sàng của nhiễm HSV trong số những người nhiễm HIV. Tuy nhiên CDC đã khuyến cáo cần sử dụng liều cao hơn, thời gian điều trị dự phòng dài hơn ở người nhiễm HIV, cụ thểPhương pháp dự phòng liên tục:      – Acyclovir: 400 – 800 mg 2 – 3 lần/ngày;      – Famcyclovir: 500 mg 2 lần/ngày;      – Valacyclovir 500 mg 2 lần/ngày.Phương pháp dự phòng gián đoạn:      – Acyclovir: 400 mg 3 lần/ngày trong 5 – 10 ngày;      – Famciclovir: 500 mg 2 lần 1 ngày 5 – 10 ngày;      –  Valacyclovir 1000 mg 2 lần/ngày trong 5 – 10 ngày.      Vấn đề HSV-2 kháng acyclovir trong phương pháp điều trị dự phòng liên tục chưa quá trầm trọng. Trong 2 nghiên cứu lớn, tỷ lệ này chỉ là 0,18% và 0,32%. Thậm chí phân lập được HSV kháng thuốc từ bệnh nhân có hệ miễn dịch khoẻ mạnh, virus này rất hiếm gặp, không đáng lo ngại, không ảnh hưởng đến những hiệu quả trên lâm sàng.      Tuy nhiên người ta lại phát hiện hiện tượng kháng thuốc ở những bệnh nhân có HIV điều trị lâu dài. Khi đã khẳng định kháng acyclovir thì cũng cần phải xem xét vấn đề kháng chéo với famciclovir và valacyclovir. Lúc này thì phải tính đến việc sử dụng foscarnet trên lâm sàng.8. PHÁT TRIỂN CÁC THUỐC KHÁNG VIRUS      Hiện nay, người ta đang nghiên cứu sử dụng pritelivir để điều trị HSV-2. Pritelivir là một thuốc ức chế phức hợp helicase-primase của HSV-2, cơ chế hoạt động của thuốc khác với cơ chế tương tự nucleoside của acyclovir, famciclovir và valacyclovir. Trong một nghiên cứu trên 156 người có HSV-2 dương tính và có tiền sử herpes sinh dục. Đối tượng nghiên cứu được phân một cách ngẫu nhiên vào nhóm sử dụng giả dược hay một trong 4 liều pritelivir (5 mg/ngày; 25 mg/ngày; 75 mg/ngày hoặc 400 mg/tuần) trong 28 ngày [54]. Xét nghiệm PCR hàng ngày để phát hiện HSV-2. Những người sử dụng liều cao (75mg/ngày hoặc 400mg/tuần) có tỷ lệ giảm đáng kể tỷ lệ lây truyền virus và số ngày trung bình có thương tổn. Nguy cơ tương đối của lây truyền virus giữa nhóm sử dụng pritelivir và giả dược là 0,13 (95% Cl, 0,04 – 0,38) với nhóm dùng liều 75 mg/ngày và 0,32 (95% Cl 0,17 – 0,59) ở nhóm dùng liều 400 mg/tuần. Tỷ lệ phần trăm số ngày có thương tổn cũng giảm ở 2 nhóm sử dụng liều cao (1,2% ở cả 2 nhóm liều cao so với 9% ở nhóm giả dược). Hai nhóm sử dụng pritelivir liều thấp kết quả tương tự nhóm giả dược. Tuy nhiên pritelivir có gây độc trên khỉ nên FDA còn đang xem xét, trong tương lai có thuốc này hay không còn chưa rõ ràng.9. TƯ VẤN CHO BỆNH NHÂN – Mục tiêu của tư vấn cho bệnh nhân và bạn tình của họ là để bệnh nhân hiểu được vấn đề chẩn đoán bệnh của họ, dự phòng như thế nào và tránh các hiểu nhầm về bệnh tật. Cần phải cho bệnh nhân biết về tiền sử lây nhiễm của họ và nhấn mạnh đến khái niệm lan truyền virus, khả năng tái phát và lan truyền virus ngay cả khi không có biểu hiện lâm sàng.10. THÔNG TIN CHO NGƯỜI BỆNH      Bên cạnh bài báo chuyên khảo này, UpToDate cung cấp 2 loại tài liệu hướng dẫn bệnh nhân, tạm gọi là “cơ bản” và “nâng cao”. Loại “cơ bản” viết dưới ngôn ngữ dễ hiểu (cấp độ đọc 5-6, cách phân loại của Mỹ ND). Tại đây, người ta trả lời 4 – 5 câu hỏi mà người bệnh hay đặt ra trong các tình huống. Loại tài liệu này rất tốt cho những người muốn tìm thiểu thông tin chung về bệnh, ngắn gọn, súc tích, đơn giản, dễ hiểu. Loại tài liệu “nâng cao” viết dài hơn, chuyên môn sâu hơn và chi tiết hơn. Loại tài liệu “nâng cao” có cấp độ đọc 10 – 12, tốt cho những người muốn tìm hiểu sâu hơn về bệnh và có khả năng hiểu được những thuật ngữ chuyên ngành y tế. Với các bài báo giáo dục bệnh nhân, tác giả khuyên chúng ta in ra hoặc email cho người bệnh để họ đọc.

 Tin, bài dịch: Bác sỹ Vũ Thanh TùngĐăng tin: Phòng CNTT&GDYT

11. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Gupta R, Warren T, Wald A. Genital herpes. Lancet 2007; 370:2127. 2. Corey L, Mindel A, Fife KH, et al. Risk of recurrence after treatment of first-episode genital herpes with intravenous acyclovir. Sex Transm Dis 1985; 12:215. 3. Corey L, Adams HG, Brown ZA, Holmes KK. Genital herpes simplex virus infections: clinical manifestations, course, and complications. Ann Intern Med 1983; 98:958 4. Benedetti JK, Zeh J, Corey L. Clinical reactivation of genital herpes simplex virus infection decreases in frequency over time. Ann Intern Med 1999; 131:14. 5. Mertz GJ, Critchlow CW, Benedetti J, et al. Double-blind placebo-controlled trial of oral acyclovir in firstepisode genital herpes simplex virus infection. JAMA 1984; 252:1147. 6. Perry CM, Wagstaff AJ. Famciclovir. A review of its pharmacological properties and therapeutic efficacy in herpesvirus infections. Drugs 1995; 50:396. 7. Perry CM, Faulds D. Valaciclovir. A review of its antiviral activity, pharmacokinetic properties and therapeutic efficacy in herpesvirus infections. Drugs 1996; 52:754. 8. Corey L, Benedetti J, Critchlow C, et al. Treatment of primary first-episode genital herpes simplex virus infections with acyclovir: results of topical, intravenous and oral therapy. J Antimicrob Chemother 1983; 12 Suppl B:79. 9. Cernik C, Gallina K, Brodell RT. The treatment of herpes simplex infections: an evidence-based review. Arch Intern Med 2008; 168:1137. 10. Corey L, Fife KH, Benedetti JK, et al. Intravenous acyclovir for the treatment of primary genital herpes. Ann Intern Med 1983; 98:914. 11. Bryson YJ, Dillon M, Lovett M, et al. Treatment of first episodes of genital herpes simplex virus infection with oral acyclovir. A randomized double-blind controlled trial in normal subjects. N Engl J Med 1983; 308:916. 12. Loveless M, Sacks SL, Harris JRW. Famciclovir in the management of first- episode genital herpes. Infect Dis Clin Pract 1997; 6:S12. 13. Fife KH, Barbarash RA, Rudolph T, et al. Valaciclovir versus acyclovir in the treatment of first-episode genital herpes infection. Results of an international, multicenter, double-blind, randomized clinical trial. The Valaciclovir International Herpes Simplex Virus Study Group. Sex Transm Dis 1997; 24:481. 14. Workowski KA, Bolan GA, Centers for Disease Control and Prevention. Sexually transmitted diseases treatment guidelines, 2015. MMWR Recomm Rep 2015; 64:1. 15. Wald A, Benedetti J, Davis G, et al. A randomized, double-blind, comparative trial comparing high- and standard-dose oral acyclovir for first-episode genital herpes infections. Antimicrob Agents Chemother 1994; 38:174. 16. Drugs for sexually transmitted infections. Treat Guidel Med Lett 2004; 2:67. 17. Drugs for non-HIV viral infections. Treat Guidel Med Lett 2005; 3:23. 18. Mattison HR, Reichman RC, Benedetti J, et al. Double-blind, placebo-controlled trial comparing long-term suppressive with short-term oral acyclovir therapy for management of recurrent genital herpes. Am J Med 1988; 85:20. 19. Fife KH, Almekinder J, Ofner S. A comparison of one year of episodic or suppressive treatment of recurrent genital herpes with valacyclovir. Sex Transm Dis 2007; 34:297. 20. Mills J, Mindel A. Genital herpes simplex infections: some therapeutic dilemmas. Sex Transm Dis 2003; 30:232. 21. Patel R, Stanberry L, Whitley RJ. Review of recent HSV recurrent-infection treatment studies. Herpes 2007; 14:23. 22. Lebrun-Vignes B, Bouzamondo A, Dupuy A, et al. A meta-analysis to assess the efficacy of oral antiviral treatment to prevent genital herpes outbreaks. J Am Acad Dermatol 2007; 57:238. 24. Corey L, Bodsworth N, Mindel A, et al. An update on short-course episodic and prevention therapies for herpes genitalis. Herpes 2007; 14 Suppl 1:5A. 25. Reichman RC, Badger GJ, Mertz GJ, et al. Treatment of recurrent genital herpes simplex infections with oral acyclovir. A controlled trial. JAMA 1984; 251:2103. 26. Wald A, Carrell D, Remington M, et al. Two-day regimen of acyclovir for treatment of recurrent genital herpes simplex virus type 2 infection. Clin Infect Dis 2002; 34:944. 27. Goldberg LH, Kaufman R, Conant MA, et al. Oral acyclovir for episodic treatment of recurrent genital herpes. Efficacy and safety. J Am Acad Dermatol 1986; 15:256. 28. Sacks SL, Aoki FY, Diaz-Mitoma F, et al. Patient-initiated, twice-daily oral famciclovir for early recurrent genital herpes. A randomized, double-blind multicenter trial. Canadian Famciclovir Study Group. JAMA 1996; 276:44. 29. Aoki FY, Tyring S, Diaz-Mitoma F, et al. Single-day, patient-initiated famciclovir therapy for recurrent genital herpes: a randomized, double-blind, placebo-controlled trial. Clin Infect Dis 2006; 42:8. 30. Abudalu M, Tyring S, Koltun W, et al. Single-day, patient-initiated famciclovir therapy versus 3-day valacyclovir regimen for recurrent genital herpes: a randomized, double-blind, comparative trial. Clin Infect Dis 2008; 47:651. 31. Spruance SL, Tyring SK, DeGregorio B, et al. A large-scale, placebo-controlled, dose-ranging trial of peroral valaciclovir for episodic treatment of recurrent herpes genitalis. Valaciclovir HSV Study Group. Arch Intern Med 1996; 156:1729. 32. Saiag P, Praindhui D, Chastang C. A double-blind, randomized study assessing the equivalence of valacyclovir 1000 mg once daily versus 500 mg twice daily in the episodic treatment of recurrent genital herpes. Genival Study Group. J Antimicrob Chemother 1999; 44:525. 33. Leone PA, Trottier S, Miller JM. Valacyclovir for episodic treatment of genital herpes: a shorter 3-day treatment course compared with 5-day treatment. Clin Infect Dis 2002; 34:958. 34. Strand A, Patel R, Wulf HC, et al. Aborted genital herpes simplex virus lesions: findings from a randomised controlled trial with valaciclovir. Sex Transm Infect 2002; 78:435. 35. Bodsworth NJ, Crooks RJ, Borelli S, et al. Valaciclovir versus aciclovir in patient initiated treatment of recurrent genital herpes: a randomised, double blind clinical trial. International Valaciclovir HSV Study Group. Genitourin Med 1997; 73:110. 36. Corey L, Wald A, Patel R, et al. Once-daily valacyclovir to reduce the risk of transmission of genital herpes. N Engl J Med 2004; 350:11. 37. Reitano M, Tyring S, Lang W, et al. Valaciclovir for the suppression of recurrent genital herpes simplex virus infection: a large-scale dose range-finding study. International Valaciclovir HSV Study Group. J Infect Dis 1998; 178:603. 38. Straus SE, Croen KD, Sawyer MH, et al. Acyclovir suppression of frequently recurring genital herpes. Efficacy and diminishing need during successive years of treatment. JAMA 1988; 260:2227. 39. Molin L, Ruhnek-Forsbeck M, Svennerholm B. One year acyclovir suppression of frequently recurring genital herpes: a study of efficacy, safety, virus sensitivity and antibody response. Scand J Infect Dis Suppl 1991; 80:33. 40. Douglas JM, Critchlow C, Benedetti J, et al. A double-blind study of oral acyclovir for suppression of recurrences of genital herpes simplex virus infection. N Engl J Med 1984; 310:1551. 41. Mertz GJ. Management of genital herpes. Adv Exp Med Biol 1996; 394:1. 42. Mertz GJ, Loveless MO, Levin MJ, et al. Oral famciclovir for suppression of recurrent genital herpes simplex virus infection in women. A multicenter, double-blind, placebo-controlled trial. Collaborative Famciclovir Genital Herpes Research Group. Arch Intern Med 1997; 157:343. 43. Sacks SL. Famciclovir suppression of asymptomatic and symptomatic recurrent anogenital herpes simplex virus shedding in women: a randomized, double-blind, double-dummy, placebo-controlled, parallel-group, single-center trial. J Infect Dis 2004; 189:1341. 44. Patel R, Bodsworth NJ, Woolley P, et al. Valaciclovir for the suppression of recurrent genital HSV infection: a placebo controlled study of once daily therapy. International Valaciclovir HSV Study Group. Genitourin Med 1997; 73:105. 45. Wald A, Selke S, Warren T, et al. Comparative efficacy of famciclovir and valacyclovir for suppression of recurrent genital herpes and viral shedding. Sex Transm Dis 2006; 33:529. 46. Gupta R, Wald A, Krantz E, et al. Valacyclovir and acyclovir for suppression of shedding of herpes simplex virus in the genital tract. J Infect Dis 2004; 190:1374. 47. Whitley RJ, Kimberlin DW, Roizman B. Herpes simplex viruses. Clin Infect Dis 1998; 26:541. 48. Balfour HH Jr. Resistance of herpes simplex to acyclovir. Ann Intern Med 1983; 98:404. 49. Parker AC, Craig JI, Collins P, et al. Acyclovir-resistant herpes simplex virus infection due to altered DNA polymerase. Lancet 1987; 2:1461. 50. Reyes M, Shaik NS, Graber JM, et al. Acyclovir-resistant genital herpes among persons attending sexually transmitted disease and human immunodeficiency virus clinics. Arch Intern Med 2003; 163:76. 51. Danve-Szatanek C, Aymard M, Thouvenot D, et al. Surveillance network for herpes simplex virus resistance to antiviral drugs: 3-year follow-up. J Clin Microbiol 2004; 42:242.  52. Englund JA, Zimmerman ME, Swierkosz EM, et al. Herpes simplex virus resistant to acyclovir. A study in a tertiary care center. Ann Intern Med 1990; 112:416. 53. Mertz GJ, Jones CC, Mills J, et al. Long-term acyclovir suppression of frequently recurring genital herpes simplex virus infection. A multicenter double-blind trial. JAMA 1988; 260:201. 54. Wald A, Corey L, Timmler B, et al. Helicase-primase inhibitor pritelivir for HSV-2 infection. N Engl J Med 2014; 370:201.  

Đồng Nai: Lan Tỏa Gương Người Tốt, Việc Tốt Trong Đồng Bào Công Giáo

Với phương châm Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc đồng bào, sống tốt đời, đẹp đạo, những năm qua, đồng bào Công giáo trong tỉnh Đồng Nai đã tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua, các cuộc vận động do Nhà nước, ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp phát động.

Nhà lưu trú bệnh nhân khang trang, hiện đại đang được Dòng trợ thế Thánh Gioan Thiên Chúa hoàn thiện để phục vụ bệnh nhân có hoàn cảnh đặc biệt

* Sống tốt đời, đẹp đạo

Phó chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Đồng Nai Vũ Đình Trung đánh giá, với những kết quả đạt được trong giai đoạn 2015-2020 đã cho thấy, phong trào thi đua yêu nước trong đồng bào Công giáo ngày càng được phát huy, làm xuất hiện ngày càng nhiều mô hình hay, cách làm tốt và nhiều tấm gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt trong sản xuất, phát triển kinh tế, giúp nhau giảm nghèo, tham gia xây dựng đời sống văn hóa; tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu… Qua đó, góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Phòng Chẩn trị y học cổ truyền Thiên An là một trong những cơ sở y tế do đồng bào Công giáo tỉnh nhà xây dựng nhằm mục đích từ thiện – xã hội. Trung bình mỗi năm thực hiện khám, chữa bệnh cho hơn 10 ngàn lượt bệnh nhân, trong đó số tiền miễn, giảm hơn 1,1 tỷ đồng. Linh mục Antôn Nguyễn Chân Hồng chia sẻ, tinh thần, tôn chỉ của Dòng trợ thế Thánh Gioan Thiên Chúa là giúp đỡ những người bệnh tật và túng quẫn, đặc biệt dành ưu tiên cho những người nghèo khổ; phục vụ chăm sóc con người toàn diện, cả về thể xác lẫn tinh thần. Hiện Dòng cũng đang trong quá trình hoàn thiện một khu nhà lưu trú bệnh nhân với quy mô 5 lầu, 1 trệt, được trang bị đầy đủ tiện nghi nhằm phục vụ tốt nhất cho bệnh nhân.

Rời miền Bắc vào Đồng Nai sinh sống bằng nghề cạo mủ cao su và làm ruộng rẫy, nhiều năm qua, trong điều kiện phải một mình nuôi 2 con ăn học vất vả, bà Trần Thị Hiệp, giáo dân giáo xứ Xuân Thịnh (ngụ xã Đồi 61, H.Trảng Bom) không ngừng nỗ lực vươn lên tự ổn định cuộc sống của mình và nuôi dạy con tốt. Đồng thời, tích cực tham gia các phong trào thi đua, nhất là phát huy vai trò của phụ nữ Công giáo trong xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

Theo bà Trần Thị Hiệp: “Phong trào thi đua này cần có sự chung tay góp sức của toàn dân, không phân biệt tuổi tác, giới tính cũng không phân biệt thành phần giai cấp, tôn giáo hoặc không tôn giáo…”.

Với tâm niệm như vậy, từ năm 2015 đến nay, bà đã giúp đỡ cho 30 gia đình có hoàn cảnh khó khăn vượt khó, thoát nghèo, có việc làm ổn định. Hằng năm bà đến thăm hỏi, tặng quà với tổng trị giá 120 triệu đồng cho trẻ em mồ côi, người già neo đơn… ở nhiều trại trẻ mồ côi, cơ sở nuôi dưỡng chăm sóc người già neo đơn trong và ngoài tỉnh.

* Tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước

Linh mục Trần Xuân Thảo, Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo tỉnh Đồng Nai chia sẻ, 5 năm qua, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam tỉnh đã tích cực hướng dẫn, động viên các vị linh mục, tu sĩ và đồng bào Công giáo trên địa bàn tỉnh hưởng ứng phong trào phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, xây dựng nếp sống văn hóa ở khu dân cư, đẩy mạnh phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc… Qua đó, nhằm  góp phần từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, giữ vững an ninh trật tự và an toàn xã hội.

Linh mục Trần Xuân Thảo nhấn mạnh, một trong những phong trào ảnh hưởng sâu rộng trong đồng bào Công giáo là phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, sống tốt đời, đẹp đạo (nay là phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, sống tốt đời, đẹp đạo) do Trung ương Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam phát động, tạo không khí thi đua sôi nổi trong các xứ đạo, họ đạo, đem lại hiệu quả thiết thực trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Các nhân viên y tế của Phòng Chẩn trị y học cổ truyền Thiên An  thuộc Dòng trợ thế Thánh Gioan Thiên Chúa đang điều trị cho bệnh nhân

 

Điển hình như trong phong trào thi đua tích cực đóng góp các hoạt động bác ái – xã hội. 5 năm qua, đồng bào Công giáo tỉnh đã đẩy mạnh hoạt động bác ái -  xã hội với những việc làm rất cụ thể và ý nghĩa. Có thể kể đến như: phong trào xây nhà tình nghĩa – nhà tình thương với hơn 1 ngàn căn nhà với tổng kinh phí hơn 28 tỷ đồng. Công tác khuyến học, khuyến tài với tổng kinh phí hơn 237,5 tỷ đồng. Công tác chăm sóc, nuôi dưỡng các cụ già neo đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật với 17 cơ sở bảo trợ xã hội thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng cho khoảng 1 ngàn người… Tổng số tiền thực hiện các hoạt động bác ái – xã hội của đồng bào Công giáo trong  5 năm qua lên đến hơn 800 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, đồng bào Công giáo tỉnh cũng dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác giáo dục, dạy nghề nhằm góp phần thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa giáo dục của Nhà nước và cùng với ngành Giáo dục thực hiện phổ cập giáo dục trên địa bàn tỉnh. Minh chứng là hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 130 cơ sở hoạt động trong lĩnh vực giáo dục do giới Công giáo thành lập và quản lý. Nổi bật trong đó có thể kể đến là Trường cao đẳng Nghề Hòa Bình – Xuân Lộc do Tòa Giám mục Xuân Lộc thành lập. Hiện trường có 10 khoa với 20 ngành nghề có khả năng đáp ứng cho hơn 3,5 ngàn học sinh, sinh viên. Mỗi năm nhà trường tuyển sinh hơn 1 ngàn học sinh, tỷ lệ tốt nghiệp hằng năm đạt trên 97%, góp phần đáp ứng nhu cầu về lực lượng lao động có tay nghề cao, phục vụ yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa của tỉnh…  

Sáng mai 21-7, tại Trung tâm Hội nghị và tổ chức sự kiện tỉnh Đồng Nai, Ủy ban Đoàn kết Công giáo tỉnh tổ chức hội nghị  biểu dương gương Người tốt, việc tốt trong đồng bào Công giáo tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2015-2020. Hội nghị nhằm đánh giá kết quả phong trào thi đua yêu nước trong đồng bào Công giáo tỉnh giai đoạn 2015-2020 và xác định phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm của phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2020-2025.

Tại hội nghị,Ủy ban Đoàn kết Công giáo tỉnh sẽ trao tặng huy hiệu điển hình tiên tiến trong đồng bào Công giáo tỉnh Đồng Nai, giai đoạn 2015-2020 cho 125 cá nhân tiêu biểu.

(baodongnai.com.vn)

Bạn đang xem bài viết Nhiễm Herpes Lan Tỏa Toàn Thân – Eczema Herpesticum trên website Brandsquatet.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!