Top 12 # Hậu Quả Ung Thư Vú Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Brandsquatet.com

【Tìm Hiểu】Hậu Quả Ung Thư Vú Di Căn Xương

Di căn xương là một trong những vị trí thường gặp nhất của di căn do ung thư vú. Trên 90% bệnh nhân ung thư vú giai đoạn di căn có di căn xương.

Xương cũng là vị trí tái phát thường gặp sau điều trị u nguyên phát. Hình ảnh X-quang ung thư vú di căn xương cho thấy nó có thể hủy xương, tạo xương, hỗn hợp hủy xương và tạo xương hoặc tổn thương loãng xương. Mặc dù đau là hậu quả của tất cả các thể bệnh nhưng thể hủy xương và loãng xương dẫn đến kết cục là gẫy xương bệnh lý, bệnh cảnh đặc biệt do giảm khối lượng xương hoặc chèn ép tủy sống.

Đau là dấu hiệu thường gặp nhất ở các bệnh nhân di căn xương do ung thư vú. Gẫy xương bệnh lý có thể là dấu hiệu chỉ điểm di căn xương, tỷ lệ gẫy xương bệnh lý từ 8 – 29% hay gặp ở các xương dài. Di căn xương do ung thư vú thường gặp ở các bè xương giàu tủy xương, khi bệnh tiến triển có thể thấy xâm lấn vỏ xương trên lâm sàng và X-quang. Di căn xương thường gặp ở xương chậu 55%, cột sống thắt lưng 54%, xương sườn 43%, xương dài 39%, xương sọ 29%, cột sống cổ 22%. Bệnh cảnh lâm sàng của di căn xương do ung thư vú thường chậm và kéo dài, đặt người bệnh vào tình trạng đau đớn và tàn tật.

Mục đích chính của điều trị di căn xương nhằm giảm đau, phòng ngừa gẫy xương bệnh lý, tăng cường vận động và chức năng, từ đó cải thiện chất lượng cuộc sống và kéo dài thời gian sống thêm. Ở Singapore, chúng tôi Ang Peng Tiam và chúng tôi Pattricia Kho hiện đang hợp tác tại Bệnh viện Thu Cúc cũng từng điều trị cho nhiều trường hợp ung thư vú giai đoạn muộn, có trường hợp đáp ứng điều trị tốt có thể sống thêm trên 5 năm.

Trường hợp cần hỗ trợ hoặc đặt lịch khám tại Bệnh viện Thu Cúc, bạn có thể liên hệ trực tiếp với Khoa Ung bướu, Bệnh viện Thu Cúc theo hotline 0907.245.888.

https://ungbuouvietnam.com

Hậu Quả Khôn Lường Từ Đắp Lá Chữa Ung Thư Vú

Tuy nhiên, vẫn có những người chữa bệnh bằng thuốc nam theo sự mách bảo đã để lại hậu quả nặng nề khi mất cơ hội điều trị.

Không chỉ bệnh nhân ở vùng sâu, vùng xa cả tin vào phương pháp chữa Ung thư vú bằng đắp lá, dán cao… mà ngay cả ở vùng thành thị, thậm chí ở Thủ đô cũng có bệnh nhân nữ chữa bệnh theo cách này.

Biến chứng nguy hiểm vì đắp lá

Mới đây, các bác sĩ Khoa Nội 1 – Bệnh viện K cơ sở Tân Triều đã tiếp nhận nữ bệnh nhân (BN) 51 tuổi ở Hà Giang với các vết lở loét, sưng phồng, chảy mủ ở vú.

Chị T cho biết, trước đó khoảng 1 năm, chị tự sờ thấy cái u ở vú nhưng không đi khám mà nghe lời mách bảo đi mua thuốc lá của “thầy lang” về đắp. Nhưng sau gần 1 năm đắp lá, khối u vú ngày càng to, căng phồng, lở loét, sùi như súp lơ đỏ.

Bác sĩ Đỗ Huyền Nga, Phó Khoa Nội 1 cho biết, chị H.T.T đã bị tổn thương thâm nhiễm toàn bộ vú trái, giai đoạn lan rộng tại chỗ không còn khả năng phẫu thuật. Hiện BN đang điều trị hoá chất, tuy nhiên đó chỉ là điều trị triệu chứng, giúp kéo dài thời gian tối đa.

“Một số loại hồ, cao có tính chất nóng còn kích thích tế bào phát triển. Một số loại khác không kích thích, không làm bệnh lui đi, nhưng làm mất cơ hội điều trị bệnh. Sau 5 – 6 tháng, khối u phát triển to lên theo thời gian, làm chuyển từ giai đoạn sớm thành giai đoạn muộn, từ chưa di căn thành di căn”, chúng tôi Lê Thanh Đức chia sẻ.

Thấy cảm giác nóng rát, đau tức ngực khi đắp lá, chị C cứ tin đó là thuốc đang có “tác dụng”. Đến khi ngực sưng tấy, lở loét, chảy mủ… chị C mới đến Bệnh viện K khám.

Qua thăm khám, các bác sĩ chẩn đoán chị N.T.C bị nhiễm trùng nặng tuyến vú, phần hoại tử đã lan rộng sang nách. Các bác sĩ đã cắt bỏ toàn bộ vú và khoét rộng sang cả nách. Đáng tiếc, khối u vú của chị C đã di căn, chuyển sang ung thư giai đoạn 4.

Theo TS. BS Lê Thanh Đức, Trưởng khoa Nội 5, Bệnh viện K, 2 trường hợp trên không phải là hiếm mà tại khoa này thỉnh thoảng cũng tiếp nhận các BN trong tình trạng đã bị tổn thương nặng vùng vú do đắp lá, dán cao.

Hầu hết những bệnh nhân này khi chụp chiếu thường bệnh đã di căn phổi, gan, xương, giai đoạn 4, khiến cho quá trình điều trị khó khăn và không hiệu quả. Điều đáng nói, không chỉ BN ở vùng sâu, vùng xa cả tin vào phương pháp chữa UTV bằng đắp lá, dán cao… mà ngay cả ở vùng thành thị, thậm chí ở Thủ đô cũng có BN nữ chữa bệnh theo cách này.

“Những BN đắp lá, đắp cao đều đeo đuổi 5 – 6 tháng, thậm chí cả năm trong khi đó khối u vẫn phát triển to lên theo thời gian, làm bệnh chuyển từ giai đoạn sớm thành giai đoạn muộn, từ chưa di căn thành di căn”, TS. Đức cảnh báo.

Nên khám và tầm soát ung thư vú

TS. Đức cho biết, với những trường hợp này, vừa phải cắt bỏ da thịt hoại tử, vừa phải tìm cách nạo vét hạch cho sạch, không bị bỏ sót. Do vậy người bệnh nên tin tưởng, tránh tâm lý buông xuôi khi từ chối điều trị bằng các phương pháp khoa học để chữa bệnh theo mách bảo dân gian và mạng xã hội, dẫn đến ung thư đã chuyển sang giai đoạn quá muộn khiến việc điều trị khó khăn.

Theo chúng tôi Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K, UTV là căn bệnh có thể điều trị khỏi hoàn toàn nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và đúng phương pháp. Việc phát hiện càng sớm thì việc điều trị đơn giản, hiệu quả, tỷ lệ chữa khỏi cao và chi phí điều trị thấp.

Tại Bệnh viện K đã chữa trị cho nhiều trường hợp UTV giai đoạn 1 – 2 khỏi bệnh trên 5 năm, sống 10 năm, 15 năm, thậm chí có những trường hợp lập gia đình, sinh con. Tuy nhiên, nếu phát hiện muộn đã di căn, việc điều trị sẽ không mang lại hiệu quả cao.

Trong cộng đồng, nhiều phụ nữ vẫn chưa có kiến thức về cách tự khám vú tại nhà và ý thức được tầm quan trọng của việc đi khám sàng lọc UTV định kỳ nên phần lớn bệnh nhân UTV đến khám và điều trị đã ở giai đoạn muộn, khả năng chữa khỏi thấp, chi phí điều trị tốn kém và kéo dài.

Do đó, để phát hiện sớm UTV, ngay cả người trẻ cũng nên khám, kiểm tra định kỳ tuyến vú. Hàng tháng có thể kiểm tra ngay tại nhà sau kỳ kinh 7 ngày bằng cách tự sờ nắn, khi thấy bất thường – có hạch ở nách, vú thì cần đến ngay cơ sở y tế để được khám.

Đặc biệt, với những trường hợp trong gia đình có tiền sử bố mẹ ung thư đại trực tràng, buồng trứng, phổi nên tầm soát UTV định kỳ. Phụ nữ ở tuổi ngoài 50, trung bình nên tầm soát ung thư vú 6 tháng/lần./.

Hậu Quả Của Bệnh Ung Thư Gan

Hậu quả của bệnh ung thư gan còn được biết đến với thuật ngữ biến chứng ung thư gan. Ung thư gan cực kì nguy hiểm bởi khi phát hiện, người bệnh thường ở giai đoạn cuối. Hậu quả của ung thư gan làm suy gan, suy thận, di căn ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe và tính mạng. Hậu quả của bệnh ung thư gan do đâu?

Hậu quả của bệnh ung thư gan để lại gây tổn hại đến sức khỏe, tính mạng người bệnh. Không chỉ vậy nó còn bào mòn đời sống tinh thần của người bệnh theo thời gian. Bệnh kéo dài càng lâu, tinh thần càng hao mòn cùng sức khỏe. Bệnh ung thư gan giai đoạn cuối dẫn đến di căn, hậu quả ảnh hưởng tới các bộ phận khác trong cơ thể.

Hậu quả của bệnh ung thư gan

Những người bị ung thư gan có thể gặp các biến chứng ung thư gan nghiêm trọng như bị suy gan, xảy ra khi gan không thể kéo dài đầy đủ chức năng. Suy gan thường xảy ra khi có tổn thương tế bào gan kéo dài.

Ung thư gan có thể di căn qua phổi, xương, khoang ngực, não… Di căn qua phổi sẽ dẫn đến ho ra máu, di căn màng não sẽ dẫn đến đau trong não hay phù não có máu; di căn qua xương sẽ dẫn đến đau tại cục bộ hoặc gẫy xương bệnh lý; di căn qua cột sống hoặc chèn ép dây thần kinh tủy sẽ dẫn đến đau tại cục bộ và liệt nửa người, di căn qua não sẽ xuất hiện đau đầu, ói mửa và dấu hiệu những dây thần kinh định vị.

Hậu quả của bệnh ung thư gan gồm các biến chứng nghiêm trọng như suy gan. Điều này xảy ra khi gan không thể kéo dài đầy đủ chức năng. Suy gan thường xảy ra khi có tổn thương tế bào gan kéo dài.

Thận cũng có thể bị suy, mất khả năng lọc máu và thải chất thải. Kéo theo đó nồng độ của những chất nguy hiểm này tích luỹ trong cơ thể. Lúc này ung thư gan đã di căn tới các cơ quan khác.

Hậu quả của bệnh ung thư gan còn gây di căn qua phổi, xương, khoang ngực … và xuất hiện các triệu chứng tương ứng. Nếu như di căn qua phổi sẽ dẫn đến ho ra máu.

Di căn màng não sẽ dẫn đến đau trong não hay phù não có máu.

Di căn qua xương sẽ dẫn đến đau tại cục bộ hoặc gẫy xương bệnh lý.

Di căn qua cột sống hoặc chèn ép dây thần kinh tủy sẽ dẫn đến đau tại cục bộ và liệt nửa người.

Di căn qua não sẽ xuất hiện đau đầu, ói mửa và dấu hiệu những dây thần kinh định vị.

Khi bệnh nhân ung thư gan bị sốt, tức là lượng lớn tổ chức ung thư bị phá hủy được cơ thể hấp thụ. Hoặc khối u chèn ép lên đường mật dẫn đến viêm đường mật hay bị nhiễm trùng gây ra. Khi đó bệnh nhân ung thư gan sẽ tử vong rất nhanh.

Lá đu đủ trị bệnh ung thư gan – Cách dùng lá đu đủ tốt nhất

Nắm rõ triệu chứng ung thư gan là rất quan trọng để phát hiện bệnh sớm. Nhờ đó ngăn chặn kịp thời trước khi có những biến chứng ung thư gan nguy hiểm.

Đau vùng hạ sườn phải, thường gặp vào thời kỳ giữa và cuối, đau tức hoặc như dao đâm. Thường trên nửa số bệnh nhân có đau vùng gan, đau xuyên lên vai phải và lưng.

Bụng trên đầy tức, xuất hiện sớm

Biểu hiện này thường kèm theo những triệu chứng rối loạn tiêu hóa nhưng ít được chú ý. Đến lúc muộn thì đã có nước bụng và cổ trướng.

Chán ăn là triệu chứng sớm nhất của bệnh nhưng ít được chú ý. Triệu chứng dần dần xuất hiện như buồn nôn, nôn, tiêu chảy nặng lên đã là giai đoạn cuối.

Mệt mỏi, sút cân, sốt và xuất huyết

Đây là những triệu chứng của thời kỳ cuối. Lúc này tiên lượng đã rất xấu.

Gan to, lách to (khối u vùng bụng trên)

Trên 90% số bệnh nhân đến khám là gan to, cứng, mặt gồ ghề hoặc ấn đau. Triệu chứng thường kèm theo và là kết quả của xơ gan.

Biến chứng xảy ra do tắc mật và do tế bào hủy hoại nặng dần lên, mạch sao. Điều này làm cho các khối u chèn ép vào gan gây ra hiệt tượng vàng da hoặc vàng phần lòng trắng của mắt.

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc trường đại học Michigan thì hiện tượng vàng da có thể gặp ở đa số bệnh nhân có khối u ở đường mật. Có tới 80% bệnh nhân ung thư gan đều gặp hiện tượng này. Triệu chứng thường xuất hiện vào thời kỳ cuối biểu hiện của xơ gan.

Hậu quả của ung thư gan do đâu?

Hầu hết các trường hợp ung thư gan đều có nguyên nhân không rõ ràng. Nhưng trong một số trường hợp, nguyên nhân ung thư gan được xác định cụ thể. Ví dụ nhiễm trùng mãn tính với một số loại siêu vi khuẩn viêm gan siêu vi có thể gây ung thư gan.

Ung thư gan xảy ra khi các tế bào gan phát triển đột biến trong DNA gan. DNA gan vốn là vật liệu quan trọng trong mọi quá trình chuyển hóa trong cơ thể. Đột biến DNA có thể gây ra những thay đổi, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Các tế bào hư hỏng ngày càng lan rộng vượt khỏi tầm kiểm soát. Cuối cùng là hình thành một khối u ung thư.

Lá đu đủ và sả chữa ung thư gan hết không? Cách nấu lá đu đủ trị bệnh

Nhiễm các virus siêu vi viêm gan loại B(HBV) hoặc siêu vi viêm gan C (HCV) làm tăng nguy cơ ung thư gan. Ung thư gan giai đoạn cuối là tình trạng các loại virut này phát triển không kiềm chế được, gây ảnh hưởng tới các bộ phận khác.

Tình trạng gan xơ tiến triển lâu ngày có thể gây ra các mô sẹo hình thành trong gan. Điều này làm tăng nguy cơ phát triển ung thư gan.

Bệnh gan như nhiễm sắc tố sắt mô hay bệnh Wilson có thể làm tăng nguy cơ ung thư gan. Từ đó dẫn tới các hậu quả, biến chứng ung thư gan nghiêm trọng.

Aflatoxin là chất độc trong các loại nấm mọc trên thực phẩm bảo quản kém. Các loại cây trồng như ngô và đậu phộng có thể bị nhiễm Aflatoxin. Chất này có tác dụng làm hậu quả của bệnh ung thư gan ngày càng nghiêm trọng.

Uống nhiều rượu bia trong nhiều năm có thể dẫn tới ung thư gan và các biến chứng của ung thư tăng nhanh. Vì vậy, người bị ung thư gan cần có chế độ ăn hợp lý, kiêng ăn những đồ cay nóng. Bên cạnh đó, cần kết hợp với thể dục điều độ, tinh thần thoải mái.

Mắc Ung Thư Vú Giai Đoạn Sớm, Chỉ Vì Cả Tin Người Phụ Nữ Lĩnh Hậu Quả Nặng Nề

Khi đến BV, chị H. đã bị viêm nhiễm toàn bộ vú trái, loét vùng rộng, chảy dịch và mủ vàng. Trong khi, nếu được điều trị đúng căn bệnh ung thư vú của chị có thể khỏi hoàn toàn.

BV đa khoa Hùng Vương vừa tiếp nhận bệnh nhân T.T.H, 47 tuổi, ở Đoan Hùng, Phú Thọ vào viện trong tình trạng suy kiệt cơ thể, khối u vú trái sưng nề, loét, chảy dịch mủ vàng.

Bệnh nhân cho biết, phát hiện ung thư vú bên ngực trái từ năm 2016, sau đó đã đến BV K kiểm tra lại, bác sĩ đã có chỉ định phẫu thuật. Tuy nhiên tin theo một số bài thuốc truyền miệng, chị H. tự ý về nhà điều trị bằng cách uống thuốc nam và đắp lá.

Sau hơn 2 năm tự điều trị tại nhà, khối u ngày càng to lên, cơ thể thêm gày yếu. 2 tháng gần đây, khối u bị vỡ, chảy mủ, bệnh nhân đau nhức nhiều nên người nhà đưa đến bệnh viện điều trị.

Ngực bệnh nhân chảy mủ, hoại tử sau 2 năm đắp lá chữa ung thư vú

Trực tiếp điều trị cho bệnh nhân H., BS Tẩn A Pao cho biết, bệnh nhân đến viện đã ở giai đoạn muộn, toàn bộ vú trái bị viêm nhiễm, khối u bị vỡ lan rộng, chảy mủ, hoại tử nhiều. Trường hợp này, bác sĩ chỉ định cắt bớt phần hoại tử, sau đó sẽ điều trị triệu chứng, giảm nhẹ đau đớn và bổ sung dinh dưỡng.

“Đây là ca bệnh vô cùng đáng tiếc. Ngay khi phát hiện ở giai đoạn sớm, nếu bệnh nhân tuân thủ theo phác đồ điều trị thì cơ hội lui bệnh rất cao”, BS Pao cho hay.

Tình trạng bệnh nhân ung thư vú tự ý đắp lá, dẫn đến hoại tử cũng thường xuyên gặp tại BV K – cơ sở điều trị ung thư lớn nhất cả nước.

Hầu hết bệnh nhân tự chữa ung thư vú tại nhà nhập viện trong tình trạng vú căng đỏ, to như trái bưởi, nhiều người vỡ loét, chảy mủ, hạch nách sưng to, lúc này ung thư đã phát triển đến giai đoạn cuối, di căn lên phổi, gan, xương, thời gian sống tối đa chỉ còn 1,5-3 năm.

Để phát hiện sớm ung thư vú, các bác sĩ khuyến cáo ngay cả người trẻ cũng nên khám, kiểm tra định kỳ tuyến vú. Hàng tháng có thể kiểm tra ngay tại nhà sau kỳ kinh 7 ngày bằng cách tự sờ nắn, khi thấy bất thường, có hạch ở nách, vú, cần đến ngay cơ sở y tế để kiểm tra.

Theo khuyến cáo mới nhất của Giám đốc BV K, phụ nữ Việt cần đi tầm soát ung thư vú ở độ tuổi sớm hơn, độ tuổi trung bình từ 40 thay vì 45 như trước, định kỳ 6 tháng/lần.

Riêng đối với những trường hợp trong gia đình có tiền sử bố mẹ bị các ung thư như đại trực trạng, buồng trứng, phổi… nên tầm soát sớm hơn và dày hơn.

Tuy nhiên thực tế, ít phụ nữ Việt để ý đến việc này, hậu quả trên 50% bệnh nhân ung thư vú đều đến viện khi đã ở giai đoạn muộn 3-4, lúc này khả năng chữa khỏi đã bị hạn chế rất nhiều, trong khi tại Việt Nam, điều trị ung thư vú cho kết quả rất khả quan, trung bình trên 70%, tương đương với Singapore.

Trong vòng 5 năm qua, tỉ lệ mắc ung thư vú ở Việt Nam lên tục tăng, từ mức 24,4/100.000 phụ nữ, đến năm 2018 đã tăng lên tới 26,2, tương đương 15.000 ca mắc mới, trong đó có hơn 6.000 ca tử vong.

Theo Thúy Hạnh (VietNamNet)