Top 8 # Ung Thư Biểu Mô Tế Bào Gan Nguyên Phát Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Brandsquatet.com

Ung Thư Biểu Mô Tế Bào Gan

Ung thư biểu mô tế bào gan (hepatoma) thường xảy ra ở bệnh nhân xơ gan và phổ biến ở các khu vực có lây nhiễm vi-rút viêm gan B và C lan rộng. Triệu chứng và dấu hiệu thường không đặc hiệu. Chẩn đoán dựa trên nồng độ alpha-fetoprotein (AFP), chẩn đoán hình ảnh, và đôi khi là sinh thiết gan. Sàng lọc bệnh nhân bằng làm xét nghiệm AFP định kỳ và làm siêu âm đôi khi được khuyến cáo cho các bệnh nhân có nguy cơ cao. Tiên lượng kém khi ung thư tiến triển, nhưng đối với những khối u nhỏ khu trú lại ở gan, các phương pháp cắt bỏ ung thư ít xâm lấn có tác dụng giảm nhẹ và phẫu thuật hoặc ghép gan đôi khi có tác dụng điều trị bệnh.

Ung thư biểu mô tế bào gan là loại ung thư gan nguyên phát phổ biến nhất, với khoảng 23.000 trường hợp mới mắc và khoảng 14.000 trường hợp tử vong được ước tính trong năm 2012 tại Mỹ. Tuy nhiên, bênh lý này phổ biến hơn ở bên ngoài nước Mỹ, đặc biệt ở khu vực Đông Á và Châu Phi vùng hạ Sahara nơi tỷ lệ mắc bệnh tương đương với tỷ lệ nhiễm ri-rút viêm gan B mạn tính (HBV) tại địa phương.

Ung thư biểu mô tế bào gan thường là một biến chứng của xơ gan.

Các chất gây ung thư trong môi trường có thể đóng vai trò nhất định; ví dụ, ăn phải thực phẩm bị nhiễm nấm aflatoxin được cho là đã góp phần làm tăng tần suất ung thư biểu mô tế bào gan ở các vùng cận nhiệt đới.

Triệu chứng và Dấu hiệu

Thường gặp nhất thì những bệnh nhân xơ gan đã ổn định trước đây có biểu hiện đau bụng, sụt cân, sờ thấy khối ở góc phần tư trên phải, và suy kiệt không rõ nguyen nhân. Sốt có thể xuất hiện. Ở một số bệnh nhân, biểu hiện đầu tiên của ung thư biểu mô tế bào gan là cổ trướng dịch máu, sốc, hoặc viêm phúc mạc gây ra do khối u bị xuất huyết. Đôi khi, tiếng gan cọ mạng sườn hoặc tiếng thổi động mạch có thể xuất hiện.

Thỉnh thoảng, xuất hiện các biến chứng của chuyển hóa hệ thống, bao gồm hạ đường huyết, tăng hồng cầu, tăng calci huyết và tăng lipid máu. Những biến chứng này có thể có biểu hiện lâm sàng.

Bác sĩ cần nghĩ đến ung thư biểu mô tế bào gan nếu

Tuy nhiên, các chương trình sàng lọc cho phép các bác sĩ phát hiện nhiều trường hợp ung thư biểu mô tế bào gan trước khi các triệu chứng xuất hiện.

Tùy thuộc vào ưu tiên và cơ sơ vật chất của địa phương, xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh đầu tiên có thể là CT, siêu âm, hoặc MRI có cản quang. Chụp động mạch gan đôi khi có ích trong những trường hợp không rõ ràng và có thể được sử dụng để phác thảo giải phẫu mạch máu khi chỉ định cắt ung thư ít xâm lấn hoặc có kế hoạch phẫu thuật.

Nếu chẩn đoán hình ảnh cho thấy các hình ảnh đặc trưng và AFP tăng cao thì chấn đoán đã rõ ràng. Sinh thiết gan đôi khi được chỉ định để chẩn đoán xác định, thủ thuật này thường được hướng dẫn bằng siêu âm hoặc CT.

Điều trị ung thư biểu mô tế bào gan phụ thuộc vào giai đoạn của ung thư (1).

Đối với một khối u < 5 cm hoặc ≤ 3 khối u đều ≤ 3 cm và khu trú ở gan, ghép gan có kết quả tiên lượng tương đương với ghép gan ở bệnh nhân không bị ung thư. Ngoài ra, phẫu thuật cắt bỏ có thể được thực hiện; tuy nhiên, ung thư thường tái phát.

Phương pháp điều trị (ví dụ như nút mạch hóa chất, nút mạch bằng vi cầu phóng xạ yttrium-90 [xạ trị chiếu trong chọn lọc, SIRT], nút mạch hóa chất bằng các hạt chứa thuốc (DEB-TACE), đốt sóng cao tần) đem lại tác dụng giảm nhẹ và giảm sự phát triển của u; các phương pháp này được sử dụng khi bệnh nhân đang chờ ghép gan.

Sử dụng vắc-xin HBV làm giảm tỷ lệ ung thư, đặc biệt là ở các khu vực bệnh lưu hành. Ngăn ngừa sự xuất hiện của xơ gan do bất kỳ nguyên nhân nào (ví dụ, thông qua điều trị viêm gan C mạn tính, phát hiện sớm bệnh tăng hồng cầu hoặc điều trị người nghiện rượu) cũng có thể có tác dụng đáng kể.

Bệnh Ung Thư Biểu Mô Tế Bào Gan

Ung thư biểu mô tế bào gan là loại ung thư nguy hiểm và khá phổ biến ở nước ta do tỉ lệ viêm gan B mạn tính, xơ gan do viêm gan B rất cao.

1. Ung thư biểu mô tế bào gan là gì

2. Triệu chứng của bệnh ung thư biểu mô tế bào gan

3. Tác hại của bệnh ung thư biểu mô tế bào gan

4. Nguyên nhân gây ra bệnh ung thư biểu mô tế bào gan

5. Điều trị bệnh ung thư biểu mô tế bào gan

6. Phòng chống bệnh ung thư biểu mô tế bào gan

7. Bác sĩ điều trị

Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) là loại ung thư gan nguyên phát phổ biến nhất. Ung thư biểu mô tế bào gan thường xảy ra ở những người có bệnh gan mãn tính, ví dụ như xơ gan do viêm gan B hay viêm gan C.

Đa số bệnh nhân không có dấu hiệu và triệu chứng trong giai đoạn đầu của ung thư gan nguyên phát. Các dấu hiệu và triệu chứng khi xuất hiện có thể bao gồm:

Đến gặp bác sĩ nếu bạn có bất kì dấu hiệu hay triệu chứng nào khiến bạn lo lắng.

Bác sĩ tham vấn thông tin:

✍ Các bác sĩ Thần Kinh Hello Doctor

유 Chat Bác sĩ trên Facebook

Ung thư biểu mô tế bào gan là căn bệnh nguy hiểm. Những triệu chứng của bệnh khiến cho người bệnh trở nên mệt mỏi, sức khỏe suy yếu. Bệnh ung thư biểu mô tế bào gan nếu không được chữa trị có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm, trường hợp xấu nhất là các tế bào ung thư di căn và khiến người bệnh tử vong.

Nguyên nhân gây ra hầu hết các trường hợp ung thư gan hiện nay vẫn không rõ. Nhưng trong một số trường hợp, nguyên nhân có thể được tìm thấy. Ví dụ trong trường hợp nhiễm trùng mãn tính cùng với nhiễm một số loại virus gây viêm gan có thể gây ra ung thư gan.

Ung thư gan xảy ra khi các tế bào gan có đột biến trong DNA. Sự đột biến trong DNA gây ra những thay đổi trong quá trình chuyển hóa chất trong cơ thể. Kết quả là các tế bào có thể bắt đầu phát triển vượt khỏi sự kiểm soát và cuối cùng hình thành khối u của các tế bào ung thư.

Các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư gan nguyên phát bao gồm:

Nhiễm HBV hoặc HCV mạn tính: Nhiễm trùng mãn tính kết hợp với tình trạng viêm gan siêu vi B (HBV) hoặc viêm gan siêu vi C (HCV) sẽ làm tăng nguy cơ ung thư gan.

Bệnh Xơ gan: Bệnh xơ gan ngày càng tiến triển và không thể phục hồi làm tăng nguy cơ phát triển của ung thư gan.

Bệnh di truyền: Một số bệnh di truyền về gan có thể làm tăng nguy cơ ung thư gan như bệnh huyết sắc tố và bệnh Wilson.

Bệnh tiểu đường: Những bệnh nhân có rối loạn chuyển hóa về đường máu có nguy cơ ung thư gan cao hơn những bệnh nhân không bị tiểu đường.

Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu: Sự tích tụ chất béo trong gan làm tăng nguy cơ ung thư gan.

Aflatoxins: Là chất độc được tiết ra bởi các loại nấm mốc. Các loại cây trồng như ngô và đậu phộng có thể bị nhiễm Aflatoxins.

Nghiện rượu: Uống nhiều hơn mức vừa phải cho phép hàng ngày trong nhiều năm có thể dẫn đến tổn thương gan không hồi phục và làm tăng nguy cơ ung thư gan.

Nghiện thuốc lá: Thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến ung thư gan. Không những thế hút thuốc lá còn gây ra rất nhiều bệnh nguy hiểm khác mà có thể bạn chưa biết. Tham khảo bài viết: Tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe để hiểu rõ hơn bạn nhé!

Các xét nghiệm và thủ thuật được sử dụng để chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan bao gồm:

Xét nghiệm máu: để kiểm tra chức năng gan

Hình ảnh học: chụp CT và MRI với thuốc cản quang.

Sinh thiết gan: trong một số trường hợp, cần phải lấy một mẫu mô gan để xét nghiệm.

Các phương pháp điều trị ung thư gan nguyên phát phụ thuộc vào mức độ (giai đoạn) của bệnh cũng như độ tuổi, tổng trạng của mỗi bệnh nhân.

Các phẫu thuật được sử dụng để điều trị ung thư gan bao gồm:

Phẫu thuật

Phẫu thuật cắt bỏ khối u: Trong những trường hợp nhất định, bác sĩ sẽ đề nghị bệnh nhân nên phẫu thuật để loại bỏ ung thư gan và một phần nhỏ các mô gan khỏe mạnh xung quanh nếu khối u nhỏ và chức năng gan của bệnh nhân còn tốt.

Đây là một lựa chọn còn phụ thuộc vào vị trí của ung thư trong gan, chức năng gan và sức khoẻ tổng thể của bệnh nhân.

Phẫu thuật ghép gan: Trong quá trình phẫu thuật ghép gan, mô gan bị bệnh được lấy ra và thay thế bằng một gan khỏe mạnh từ người hiến tặng. Phẫu thuật ghép gan chỉ là một lựa chọn cho một tỷ lệ nhỏ những người bị ung thư gan giai đoạn sớm.

Các phương pháp điều trị ung thư gan tại chỗ là điều trị trực tiếp tới các tế bào ung thư hoặc vùng xung quanh các tế bào ung thư. Các lựa chọn điều trị ung thư gan tại chỗ bao gồm:

Điều trị tại chỗ

Đốt điện các tế bào ung thư: Dòng điện được sử dụng để tiêu diệt các tế bào ung thư. Sử dụng siêu âm hoặc chụp cắt lớp vi tính như một hướng dẫn, bác sĩ phẫu thuật đưa một hoặc nhiều kim mỏng vào các vết mổ nhỏ ở bụng của bạn. Khi kim di chuyển đến khối u, chúng được làm nóng bằng dòng điện, phá huỷ các tế bào ung thư.

Đốt lạnh tế bào ung thư: Sử dụng cực lạnh để tiêu diệt các tế bào ung thư. Trong thủ thuật, bác sĩ đặt một dụng cụ chứa nitơ lỏng trực tiếp lên các khối u gan. Hình ảnh siêu âm được sử dụng để hướng dẫn và theo dõi sự đóng băng của tế bào.

Tiêm cồn vào khối u: Trong khi tiêm, rượu cồn được tiêm trực tiếp vào các khối u, thông qua da hoặc trong khi phẫu thuật. Rượu gây ra các tế bào khối u chết.

Hóa trị: Hoá đông là một loại thuốc trị liệu cung cấp các loại thuốc chống ung thư mạnh trực tiếp vào gan.

Xạ trị: Phương pháp điều trị này sử dụng năng lượng cao từ các nguồn như tia X và proton để tiêu diệt các tế bào ung thư và các khối u co lại.

Trong quá trình điều trị, bệnh nhân nằm trên bàn và máy điều khiển các chùm năng lượng tại một điểm chính xác trên cơ thể bạn.

Các thuốc điều trị hoạt động bằng cách can thiệp vào các điểm bất thường, đặc biệt trong một khối u. Mục tiêu là để làm chậm hoặc ngừng ung thư biểu mô tế bào tiến triển. Cần nhiều nghiên cứu hơn để hiểu cách điều trị nhắm mục tiêu, chẳng hạn như thuốc sorafenib là thuốc tiên tiến đi đầu trong phương pháp điều trị này,có thể được sử dụng để kiểm soát ung thư gan.

Điều trị nhắm trúng đích

Khám và chữa trị ung thư biểu mô tế bào gan tại Hello Doctor

Các phương pháp điều trị thay thế có thể giúp kiểm soát được những triệu chứng ở những bệnh nhân bị ung thư gan tiên tiến. Các phương pháp điều trị đó có thể giúp bệnh nhân giảm đau như:

Đội ngũ chuyên gia, bác sĩ chyên ung bướu hơn 20 năm kinh nghiệm thăm khám trực tiếp

Thời gian khám chữa rút ngắn tối đa giảm rủi ro di căn

Chi phí khám, chữa trị hợp lý phù hợp với bệnh nhân

Trang thiết bị y tế hiện đại cho kết quả chuẩn xác

Phác đồ điều trị ung thư hiện đại

Áp dụng bảo hiểm y tế

Theo dõi, chăm sóc bệnh nhân ngay cả khi ở nhà

Hay còn gọi là chăm sóc giảm nhẹ là chăm sóc y tế chuyên sâu tập trung vào việc giảm đau và các triệu chứng khác của một bệnh nghiêm trọng. Các chuyên gia chăm sóc giảm nhẹ làm việc với bệnh nhân, gia đình và các bác sĩ đang điều trị bệnh nhân để cung cấp thêm một số thông tin hỗ trợ cần thiết cho sự chăm sóc của bệnh nhân. Chăm sóc giảm nhẹ có thể được sử dụng trong khi điều trị tích cực khác, chẳng hạn như phẫu thuật, hóa trị liệu hoặc xạ trị.

Chăm sóc giảm nhẹ được sử dụng cùng với tất cả các phương pháp điều trị thích hợp khác, người bị ung thư có thể cảm thấy tốt hơn và sống lâu hơn.

Chăm sóc giảm nhẹ được thành lập bởi một nhóm bác sĩ, y tá và các chuyên gia được đào tạo chuyên biệt khác. Các nhóm chăm sóc giảm nhẹ nhằm mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bị ung thư và gia đình họ. Hình thức chăm sóc này được cung cấp cùng với phương pháp điều trị hoặc các phương pháp điều trị khác mà bệnh nhân có thể nhận được.

Giảm nguy cơ xơ gan: Xơ gan làm tăng nguy cơ ung thư gan.

Uống rượu có kiểm soát: Đối với phụ nữ, không uống nhiều hơn một ly một ngày. Đối với nam giới, không nên uống nhiều hơn hai ly mỗi ngày.

Duy trì thể trạng tốt: Bằng cách chọn một chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục hầu hết các ngày trong tuần.

Thận trọng với hóa chất: Đọc kỹ hướng dẫn sử dụng và làm theo chỉ dẫn của nhà sản xuất về hóa chất màbạn đang sử dụng ở nhà hoặc tại nơi làm việc.

Tiêm phòng viêm gan siêu vi B: Bạn có thể giảm nguy cơ mắc bệnh viêm gansiêu vi B bằng cách chủng ngừa văc xin viêm gan siêu viB. Vắc-xin có thể tiêmphòngđược cho hầu hết mọi lứa tuổi, bao gồm trẻ sơ sinh, người lớn tuổi và những bệnh nhân có tổn thương hệ miễn dịch.

Thực hiện các biện pháp phòng ngừa viêm gan C: Hiện tại vẫn chưa có văcxin ngừa bệnh viêm gan C, nhưng có thể làm giảm nguy cơ bị nhiễm trùng bằng các phương pháp như: quan hệ tình dục an toàn, không dùng chung kim tiêm với người khác.

Để việc điều trị ung thư biểu mô tế bào gan đạt được kết quả tốt nhất, bạn có thể liên hệ đặt khám với Hello Doctor chúng tôi theo số điện thoại 1900 1246, các bác sĩ của chúng tôi sẽ giúp đỡ và hỗ trợ cho bạn.

Điều Trị Ung Thư Biểu Mô Tế Bào Gan (Hcc)

Lựa chọn phương pháp điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh, mức độ rối loạn chức năng gan và xơ gan. Hệ thống phân chia giai đoạn theo Hội ung thư gan lâm sàng Barcelona cung cấp một phác đồ mô tả các lựa chọn phương pháp điều trị có sẵn đối với mỗi giai đoạn của bệnh ( Hình 1). Có một vài cuộc tranh luận xung quanh các chiến lược điều trị; những vấn đề này sẽ được đề cập, cùng với việc bổ sung thêm sorafenib vào trang thiết bị của các phương pháp trị liệu đối với ung thư biểu mô tế bào gan.

I.CÁC QUAN ĐIỂM ĐIỀU TRỊ:

1.Điều trị khỏi bệnh

Lựa chọn để điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) với ý định chữa khỏi bệnh, mặc dù chỉ khả thi ở một thiểu số bệnh nhân, đã góp phần vào việc cải thiện rõ tỷ lệ sống còn ở cả hai phương thức phẫu thuật và ghép gan, với tỷ lệ sống còn 5 năm là 60-70%. Ước tính 10-15% bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan là những đối tượng cho phẫu thuật cắt bỏ, và chỉ khoảng 5% đáp ứng các tiêu chuẩn để ghép gan. Phẫu thuật là một điều trị chuẩn chấp nhận được đối với ung thư biểu mô tế bào gan có thể cắt bỏ ở bệnh nhân có chức năng gan được bảo tồn. Có sự tranh luận xung quanh việc can thiệp phẫu thuật, với một số dữ liệu hỗ trợ cho việc sử dụng phương pháp ghép gan đối với dạng bệnh này do tỷ lệ tái phát thấp hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ sống còn lâu dài tương tự ở cả hai nhóm bệnh nhân cắt gan và ghép gan, vì vậy có sự quan tâm về nguy cơ biến chứng lâu dài của trường hợp thứ hai thứ phát do suy giảm miễn dịch. Việc giảm thiểu nguy cơ khi phẫu thuật là một trọng tâm trong các thử nghiệm lâm sàng. Phương thức soi ổ bụng và phương thức cắt bỏ khối u bằng sóng radio ít xâm lấn đang được nghiên cứu và hiện nay đã được chấp nhận là những cách tiếp cận chữa khỏi bệnh để điều trị các ung thư biểu mô tế bào gan kích thước nhỏ. Một phương thức cũ hơn là tiêm ethanol xuyên qua da không được ưa chuộng nữa do các dữ liệu mới đây đã cho thấy phương thức này kém hơn so với cắt bỏ khối u bằng sóng radio ở những bệnh nhân có tổn thương ung thư biểu mô tế bào gan kích thước nhỏ.

Theo phương pháp cổ điển, ghép gan được dành cho những bệnh nhân có gan bị bệnh và gan xơ có thể cắt bỏ.Tổ chức UNOS (the United Network for Organ Sharing) giúp phân bổ số lượng hạn chế các cơ quan đúng chỗ có sẵn qua việc sử dụng một hệ thống thang điểm, được gọi là hình mẫu đối với bệnh gan giai đoạn cuối, giúp điều chỉnh sự phân bổ nguồn hiếm có này – là hạn chế chính đối với ghép gan. Ghép gan bị hạn chế trong phạm vi những bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan không có hơn 1 khối u duy nhất có đường kính 5 cm hoặc nhỏ hơn, hoặc 2-3 khối u, mỗi u có đường kính 3 cm hoặc nhỏ hơn, không lan rộng đến các mạch máu chính và/hoặc không có bệnh di căn. Tỷ lệ sống còn toàn bộ 5 năm sau khi ghép gan có thể cao bằng 75%. Ghép gan từ người hiến tặng còn sống là một nguồn gan khác càng ngày càng có thế chấp nhận, mặc dù vẫn còn sự tranh luận. Cách tiếp cận điều trị này đem đến nguy cơ cho cả người hiến tặng và người nhận.

2.Điều trị bổ trợ đối với ung thư biểu mô tế bào gan

Đến nay, không có điều trị bổ trợ nào có lợi ích đã được chứng minh trong việc làm giảm nguy cơ tái phát sau phẫu thuật cắt bỏ, ghép gan hoặc cắt bỏ khối u bằng sóng radio (RFA). Trước đây, một vài thử nghiệm bổ trợ đã cho thấy kết quả khả quan ban đầu, nhưng những kết quả này không có khả năng tái lập. 2 lựa chọn điều trị bổ trợ cho ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) đã từng được đánh giá kỹ lưỡng nhất là l-131 lipiodol và acyclic retinoid. Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên ở 43 bệnh nhân, l-131 lipiodol là chất bổ trợ được dùng qua đường động mạch gan đã được so sánh với quan sát sau khi cắt bỏ ung thư biểu mô tế bào gan. Đã ghi nhận sự cải thiện về tỷ lệ sống còn không bệnh trung bình thiên về nhóm dùng l-131 lipiodol (57,2 tháng so với 13,6 tháng; P = .037). Mặc dù sự cải thiện tỷ lệ sống còn vào thời điểm trình bày dữ liệu ban đầu, nhưng sự theo dõi lâu dài về thử nghiệm này trong 10 năm không cho thấy lợi ích sống còn đối với những bệnh nhân được điều trị bằng l-131 lipiodol. Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên về thuốc acrylic retinoid so với giả dược sau phẫu thuật cắt bỏ ở 89 bệnh nhân, những người được điều trị bằng acrylic retinoid có tỷ lệ tái phát là 27% so với 49% ở những bệnh nhân dùng giả dược ( P = .04) trong giai đoạn theo dõi 38 tháng.

3.Điều trị bệnh tiến triển tại chỗ

Hai nguồn cung cấp máu cho gan có xu hướng làm phát triển nhiều trị liệu tại chỗ nhắm có chọn lọc đến các tổn thương ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) được tưới máu quá mức bởi động mạch gan thay vì nhu mô gan nền được tưới máu qua hệ thống tĩnh mạch cửa. Liệu pháp gây thuyên tắc mạch bằng hóa chất qua động mạch (TACA) được xem là một điều trị chuẩn có thể chấp nhận đối với ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển tại chỗ mà không thể thực hiện được phẫu thuật cắt bỏ hoặc ghép gan. Điều này dựa trên kết quả của 2 thử nghiệm lâm sàng cho thấy lợi ích sống còn đối với liệu pháp gây thuyên tắc mạch bằng hóa chất qua động mạch cao hơn điều trị triệu chứng. Trong 1 thử nghiệm lâm sàng ở 112 bệnh nhân có ung thư tế bào gan không thể cắt bỏ, các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên đối với liệu pháp gây thuyên tắc nhẹ động mạch (tức là không phải hóa liệu pháp), gây thuyên tắc mạch bằng hóa chất qua động mạch (TCAE) sử dụng doxorubicin, hoặc điều trị hỗ trợ tốt nhất. Điều trị bằng TACE dẫn đến lợi ích sống còn so với điều trị bảo tồn (tỷ lệ sống còn 1 năm: 82% so với 63%; tỷ lệ sống còn 2 năm: 63% so với 27%; P = .009. Theo ghi nhận, không có thử nghiệm lâm sàng nào chứng minh được sự khác biệt về tỷ lệ sống còn giữa bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp gây thuyên tắc nhẹ động mạch và bệnh nhân được điều trị bằng TACE. Một nghiên cứu thứ hai chọn ngẫu nhiên bệnh nhân đối với liệu pháp TACE sử dụng cisplatin so với điều trị triệu chứng đã cho thấy lợi ích sống còn tương tự thiên về nhóm TACE (tỷ lệ sống còn 1 năm: 57% so với 32%; tỷ lệ sống còn 2 năm: 31% so với 11%; tỷ lệ sống còn 3 năm: 26% so với 3%; P = .002. Tuy nhiên, các kết quả khả quan này không được tái lập ở các thử nghiệm khác.. Một phân tích tổng hợp bao gồm 2466 bệnh nhân từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đã được tiến hành từ năm 1980 đến 2000 đã kết luận rằng TACE làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong toàn bộ sau 2 năm. Tuy nhiên, TACE không cho thấy có hiệu quả hơn liệu pháp gây thuyên tắc nhẹ động mạch. Hai phân tích tổng hợp khác mới đây báo cáo không có lợi ích sống còn đối với nhiều cách trị liệu tại chỗ khác nhau, kể cả TACE. Bất kể điều này, cả TACE và liệu pháp gây thuyên tắc nhẹ động mạch là những điều trị chuẩn được chấp nhận đối với những bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan không thể cắt bỏ có ranh giới vùng.

II. ĐIỀU TRỊ TOÀN THÂN

Điều trị khỏi bệnh bằng phẫu thuật cắt bỏ và ghép gan là các lựa chọn được chỉ định đối với một thiểu số bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan (HCC); hơn 80% bệnh nhân bị HCC có các khối u tiến triển và không thích hợp đối với những can thiệp chữa khỏi bệnh này. Ngoài ra, trong số những bệnh nhân đã trải qua trị liệu có khả năng chữa khỏi bệnh, tỷ lệ tái phát cao là 50% vào thời điểm 2 năm; vì vậy cần tiếp tục có các tiến bộ trong điều trị toàn thân.

1.Hóa liệu pháp

Các thuốc hóa trị đã được nghiên cứu rộng rãi trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (HCC), với các thử nghiệm phase II cho tỷ lệ đáp ứng ở mức từ 10% đến 20% nhưng không bao giờ cho thấy sự cải thiện về tỷ lệ sống còn toàn bộ với điều trị hỗ trợ tốt nhất. Doxorubicin vẫn là thuốc được nghiên cứu rộng rãi nhất về HCC tiến triển, với tỷ lệ đáp ứng ở mức từ 0% đến 79%. Tỷ lệ đáp ứng mục tiêu với một thuốc đơn độc là doxorubicin trong 2 thử nghiệm phase III mới đây là 10,5% và 4%, dựa trên hình ảnh chụp X-quang có chụp cắt lớp điện toán, so sánh với các nghiên cứu trước đây đánh giá đáp ứng dựa trên khám thực thể hoặc chụp siêu âm. Hai thử nghiệm mới đây cho đánh giá chính xác nhất về hiệu quả của doxorubicin trong HCC. Các thuốc hóa trị khác đã được nghiên cứu trong điều trị HCC bao gồm docetaxel, paclitaxel, irinotecan, và gemcitabine; tuy nhiên không thuốc nào trong những thuốc này cho thấy bất kỳ lợi ích sống còn nào.

Do thiếu lợi ích sống còn khi điều trị bằng một thuốc đơn độc, các chế độ điều trị phối hợp đã được nghiên cứu rộng rãi đối với HCC. Một chế độ điều trị mạnh bằng PIAF ( cisplatin, interferon alfa-2b, doxorubicin, và 5-fluorouracil) đã cho thấy một tỷ lệ đáp ứng là 26% và tỷ lệ sống còn trung bình khoảng 9 tháng trong một thử nghiệm phase II ở 1 nhóm. Ở nghiên cứu này, mặc dù với số lượng nhỏ bệnh nhân, được xem là một bước ngoặc cho trị liệu toàn thân đối với HCC vì 13 bệnh nhân (26%) có đáp ứng; trong số này, 9 bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật và 4 bệnh nhân (9%) đã đạt được đáp ứng bệnh học hoàn toàn đối với hóa liệu pháp. Những kết quả này đã chứng tỏ là hóa liệu pháp đối với HCC có hiệu quả ở những bệnh nhân được chọn. Các kết quả khả quan này đã dẫn đến việc đánh giá PIAF trong một nghiên cứu ngẫu nhiên lớn so sánh với doxorubicin. Nghiên cứu này ở 188 bệnh nhân đã không đáp ứng tiêu chí đánh giá chính, với thời gian sống còn trung bình là 8,6 tháng đối với PIAF so với 6,8 tháng đối với doxorubicin ( P= .83). Tỷ lệ đáp ứng quan sát được với PIAF không có ý nghĩa thống kê (20,9% đối với PIAF so với 10,5% với doxorubicin ( P = .058). Các kết quả này hỗ trợ cho việc sử dụng PIAF ở dạng điều trị tân bổ trợ để phù hợp cho bệnh nhân về mặt y khoa có chức năng gan tốt là những người mà sự giảm số lượng tế bào ung thư có thể cho phép cắt bỏ trong tương lai. Khả năng chữa khỏi bệnh sẽ biện minh cho nguy cơ độc tính đáng kể của PIAF. Mặc dù cả hai chế độ hóa liệu pháp với một thuốc đơn độc và phối hợp đã không chứng minh được bất kỳ lợi ích sống còn nào trong điều trị HCC, nhưng việc sử dụng hóa liệu pháp phối hợp và trị liệu nhắm đích có tầm quan trọng do thành công của sự phối hợp trong điều trị các khối u đặc khác.

Mặc dù hoạt tính tiền lâm sàng của cetuximabtrong HCC, không có dữ liệu lâm sàng nào được công bố về việc sử dụng thuốc này trong HCC. Lapatinib – một chất ức chế kép của EGFR tyrosine kinase 1 và 2 (HER2/Neu) cũng đã được nghiên cứu trong HCC. Trong một thử nghiệm phase II đánh giá lapatinib ở 30 bệnh nhân có HCC tiến triển, 2 trong số 17 bệnh nhân được đánh giá có đáp ứng một phần đã được xác định, và 8 bệnh nhân có bệnh ổn định. Thời gian sống còn không bị bệnh tiến triển trung bình thì ngắn 1,8 tháng, không thuận lợi khi so sánh với các dữ liệu trong y văn. Ngoại trừ để cải thiện tỷ lệ sống còn đã ghi nhận đối với erlotinib (nghiên cứu phase II nhỏ ở một viện nghiên cứu), những nghiên cứu đầu tiên này về các chất ức chế EGFR không cho sự hỗ trợ đầy đủ để có thể khuyến cáo sử dụng những chất này là thuốc đơn độc trong điều trị HCC. Điều quan trọng cần chú ý là không có nghiên cứu nào trong số này đánh giá tình trạng đột biến KRAS của những bệnh nhân được đưa vào các nghiên cứu này. Trong HCC, đột biến KRAS ít xảy ra và có thể tùy thuộc vào bệnh nguyên của bệnh.

Hình 2. Ví dụ tiêu biểu về chụp cắt lớp thường và chụp cắt lớp theo dõi hàng loạt chứng minh sự hoại tử khối u ở một bệnh nhân bị HCC.

Thể tích (cm3) 285Hoại tử (%) 51

2952.1

34153.1

Bevacizumab đã được nghiên cứu rộng rãi ở những bệnh nhân bị HCC tiến triển. Bevacizumab được nghiên cứu ở dạng một thuốc đơn độc với liều 5 mg/kg và 10 mg/kg. Trong số 46 bệnh nhân được điều trị, 6 bệnh nhân (13%) đạt được đáp ứng mục tiêu, và 65% bệnh nhân không bị bệnh tiến triển vào thời điểm 6 tháng. Thời gian sống còn không bị bệnh tiến triển trung bình là 6,9 tháng và thời gian sống còn trung bình là 12,4 tháng. Xuất huyết độ 3-5 xảy ra ở 11% bệnh nhân bao gồm một trường hợp tử vong thứ phát sau xuất huyết do giãn tĩnh mạch. Một nghiên cứu khác đánh giá một thuốc đơn độc bevacizumab trong HCC cho thấy các kết quả tương tự.[Malka 2007] Trong số 24 bệnh nhân có thể đánh giá được về đáp ứng, 3 bệnh nhân có đáp ứng một phần và 13 bệnh nhân có bệnh ổn định.

IV.KẾT LUẬN

Được cho phép in lại từ Hình 6 trong tài liệu của Alavi AS, Acevedo L, Min W, Cheresh DA. Chemoresistance of endothelial cells induced by basic fibroblast growth factor depends on raf-1 mediated inhibition of the proapoptotic kinase, ASK1. Cancer Res. 2007;67:2766-2772.

Hình 1. Phân chia giai đoạn theo Hội ung thư gan lâm sàng Barcelona (BCLC).

Bảng 1. Hệ thống thang điểm Child-Pugh trong bệnh gan

INR: Tỷ số chuẩn hóa quốc tế

PEI: tiêm ethanol xuyên qua da; PS: tình trạng hoạt động cơ thể; PST: Kiểm tra tình trạng hoạt động cơ thể; RF: sóng radio; TTO: đổi chác thời gian

Đo

1 Điểm

2 Điểm

3 Điểm

Tỷ sốchuẩn hóa quốc tế (INR)

< 1,7

1,71 – 2,20

2,20

Cổ trướng

Không có

Được chặn lại bằng thuốc

Đề kháng

Bệnh não gan

Không có

Độ 1-2 (hoặc được chặn lại bằng thuốc)

Độ 3-4 (hoặc đề kháng)

Bảng 2. Phân chia giai đoạn theo thang điểm ung thư của chương trình gan Ý (CLIP –Cancer of the Liver Italian Program)

Biến số

0 Điểm

1 Điểm

2 Điểm

Hình thái học khối u

1 khôi u duy nhất và < 50% diện tích

Nhiều khôi u

Ung Thư Biểu Mô Tế Bào Gai

1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG:

Ung thư biểu mô tế bào gai (Squamous cell carcinoma) thường xuất hiện ở phần da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, ở nam giới tuổi trung niên hoặc cao tuổi. Tỷ lệ gia tăng cho mỗi 10 độ gần đường xích đạo.

Ở người da trắng, tỷ lệ mắc ung thư tế bào gai thấp hơn 4 lần so với ung thư biểu mô tế bào đáy. Biểu hiện bệnh có thể khác nhau phụ thuộc một phần vào mức độ biệt hóa.

2.CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ:

– Tia cực tím B (UVB) trong ánh sáng mặt trời. Tiếp xúc với ánh nắng mặt trời là nguyên nhân môi trường chính gây bệnh ung thư biểu mô tế bào gai. Hơn 80% ung thư da không phải melanom được tìm thấy ở những vùng tiếp xúc với ánh sáng mặt trời như đầu, cánh tay và bàn tay. Sự tương tác giữa hình thái da/ loại da và tiếp xúc với tổng thời lượng tiếp xúc với ảnh nắng mặt trời, đặc biệt là thời gian bị cháy nắng là rất quan trọng.

– Điều trị bằng PUVA ( psoralen và tia cực tím A ) cho bệnh vảy nến cũng là một yếu tố nguy cơ

– Ung thư biểu mô tế bào gai cũng có thể phát triển tại vị trí viêm mạn tính như loét không lành ( sẹo bỏng, sẹo tỳ đè, sẹo do thiểu năng động mạch hoặc tĩnh mạch ) và những vị trí viêm mạn tính do tủy xương. Những ung thư này thường xuất hiện ở những vùng không tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và xuất hiện rất nhiều năm sau khi quá trình bệnh bắt đầu. Khi ung thư biểu mô tế bào gai hiện hữu ở vết sẹo bỏng mạn tính, chúng có tên là sẹo Marjolin.

– Tiếp xúc với hóa chất ( nhựa than, các sản phẩm dầu hỏa hoặc tiếp xúc với thạch tín) có thể là yếu tố nguy cơ gây ung thư biểu mô tế bào gai.

– Các bệnh lý tiền ác tính có thể dẫn đến ung thư biểu mô tế bào gai như bệnh dày sừng do nắng, bệnh Bowen và bạch sản.

– Ung thư biểu mô tế bào gai hay gặp trong tình trạng suy giảm miễn dịch hoặc ghép tạng

3.ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG

3.1. Lâm sàng:

– Ung thư biểu mô tế bào gai có hình thái đại thể đồng nhất, không giống như ung thư biểu mô tế bào đáy

– Ung thư biểu mô tế bào gai có dạng những mảng ban đỏ, có ranh giới rõ ràng với bờ nổi cao. Khi xâm lấn sâu hơn, bờ cao hơn và tổn thương trở thành những nốt đỏ, chắc, không đau, có vảy, loét và/ hoặc hình sừng.

3.2. Mô bệnh học:

– Ung thư biểu mô tế bào gai tại chỗ đặc trưng bởi tế bào gai không đặc hiệu thay thế hoàn toàn biểu bì. Ở bệnh dày sừng anh sáng, các tế bào không đặc hiệu chỉ thay thế một phần biểu bì. Thâm nhiễm bạch huyết thường xuất hiện ở thượng bì nông.

– Xâm lấn được xác định bằng sự di chuyển các tế bào sừng không đặc hiệu qua màng đáy vào thượng bì

– Những tế bào này đa hình thể, phân bào nhiều lần và loạn sừng với những hạt hình sừng chứa những lớp cô đọng của tế bào gai với sừng hóa trung tâm.

3.3. Chẩn đoán phân biệt

– Bệnh Bowen hay bệnh ung thư biểu mô tế bào gai tại chỗ, xuất hiện chủ yếu ở người già. Những tổn thương này là ban đỏ, có gờ nổi và ranh giới rõ ràng, có vảy nến dễ nhầm với bệnh vảy nến. Thường có tiền sử không đau, tồn tại trong nhiều năm mà không tăng trưởng. Nếu nằm ở dương vật, tổn thương này được gọi là chứng hồng sản Queyrat. Về mặt mô bệnh học, có bất thường tế bào của toàn bộ chiều dày biểu bì không xâm lấn đến hạ bì. Sự tiến triển chậm chạp, nhưng 5% cuối cùng sẽ xâm lấn hạ bì.

– U gai sừng ( keratocanthoma ): tổn thương này lớn nhanh có thể lành tính hoặc ác tính. Về đại thể hay mô học, nó giống ung thư biểu mô tế bào vảy, nhưng bản chất mâu thuẫn của nó thể hiện bằng sự phát triển nhanh chóng ban đầu trong giai đoạn vài tuần, thường sau đó là giai đoạn tiềm tàng, sau đó đến giai đoạn thoái lui, mỗi thời kỳ kéo dài vài tuần. Những tổn thương này được đặt tên là ” ung thư biểu mô tế bào gai không đầy đủ ” vì xu hướng thoái lui tự nhiên của nó, nhưng đôi khi có thể phát triển thành ung thư biểu mô tế bào gai xâm lấn hoặc di căn. Nguyên nhân của sự thoái lui này chưa rõ nhưng có thể chịu ảnh hưởng của miễn dịch. Vì nguy cơ ác tính hóa rất rõ ràng và dễ nhầm với ung thư biểu mô tế bào gai nên việc cắt bỏ hoàn toàn và đánh giá tiến triển là cần thiết.

5. ĐIỀU TRỊ:

– Ở đa số bệnh nhân, phẫu thuật cắt bỏ u là phương pháp điều trị chính. Thông thường, đường rạch cách bờ u 0.5 mm ở mặt và 1 cm ở những nơi khác. Zitelli đề xuất cắt rộng 4 mm cho các tổn thương có nguy cơ thấp và 6 mm cho các tổn thương có nguy cơ cao.

– Kiểm soát khối u và bảo tồn mô lành bằng phẫu thuật Mohs, rất hữu ích cho các khối u nguy cơ cao và tái phát

– Áp lạnh cho người cao tuổi hoặc cho bệnh tại chỗ/ dày sừng do ánh sáng.

– Nạo vét và đốt điện

– Không nên sử dụng chiếu xạ như phương thức điều trị chính, nhưng có thể sử dụng như điều trị hỗ trợ

6. THEO DÕI VÀ PHÒNG NGỪA:

– Điều quan trọng phải nhận ra một điều là ung thư biểu mô tế bào gai có nguy cơ tiềm ẩn di căn xa cũng như nguy cơ tử vong đáng kể, đặc biệt là nếu bệnh tái phát

– Cần phải theo dõi quá trình phát triển của bệnh để phát hiện sự tái phát và những khối u mới xuất hiện.

Hiện tại khoa Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ, bệnh viện Đức giang chúng tôi đã tiếp nhận và điều trị các bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gai, với phác đồ cập nhật và phối hợp hội chẩn cùng khoa Ung bướu, khối cận lâm sàng để điều trị tốt nhất cho bệnh nhân.