Top 6 # Xét Nghiệm Ung Thư Bạch Huyết Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Brandsquatet.com

Ung Thư Bạch Huyết (Lymphoma)

Hạch bạch huyết hay hạch lympho là một trong vô số các cấu trúc trơn, hình bầu dục dẹp, rải rác dọc theo các mạch bạch huyết, là một phần của hệ bạch huyết. Các hạch bạch huyết có mặt ở khắp cơ thể, tập trung nhiều ở một số vùng như cổ, nách, bẹn. Hạch bạch huyết đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động của hệ miễn dịch. Chúng chứa các tế bào bạch huyết và có chức năng làm bộ lọc hoặc bẫy giữ lại các phần tử ngoại lai, có thể bị viêm và sưng khi làm nhiệm vụ này.

Ung thư bạch huyết là một loại ung thư xuất phát từ các tế bào của hệ miễn dịch được gọi là các tế bào bạch huyết (tế bào lympho). Giống như các loại ung thư khác, ung thư bạch huyết xảy ra khi các tế bào bạch huyết rơi vào tình trạng phát triển và sinh sản mất kiểm soát.

Các tế bào lympho là các bạch cầu di chuyển khắp nơi trong cơ thể bên trong một loại dịch được gọi là dịch bạch huyết. Chúng được vận chuyển bởi một mạng lưới các mạch tạo thành hệ bạch huyết, là một phần của hệ miễn dịch. Hệ bạch huyết, có nhiệm vụ chống lại nhiễm trùng hoặc bất cứ tác nhân nào đe dọa cơ thể, còn bao gồm các hạch bạch huyết nằm khắp nơi trong cơ thể để lọc dịch bạch huyết chảy qua chúng. Các hạch bạch huyết sẽ sưng nề và đau khi có một lượng lớn các vi sinh vật tập trung bên trong, và đó là dấu hiệu của tình trạng nhiễm trùng cục bộ.

Có 2 loại tế bào lympho chính: tế bào B và tế bào T. Cả 2 loại đều được thiết kế để nhận biết và tiêu diệt các tác nhân nhiễm trùng và các tế bào bất thường. Tế bào B sản xuất ra các protein đi khắp nơi trong cơ thể, dính vào các vi sinh vật gây nhiễm và các tế bào bất thường rồi báo động cho hệ miễn dịch biết rằng tác nhân gây bệnh này cần phải được tiêu diệt. Các tế bào T mới thật sự tiêu diệt trực tiếp các tác nhân gây bệnh và thực hiện chức năng điều hòa hệ miễn dịch khi chúng đang ở trong tình trạng kém hoạt động hay hoạt động quá mức.

Ung thư bạch huyết xảy ra khi tế bào B hoặc T trở nên tăng trưởng và sinh sản mất kiểm soát. Các tế bào lympho bất thường tập trung trong một hoặc nhiều hạch bạch huyết hoặc trong các mô bạch huyết như lách hay amidan để rồi cuối cùng tạo thành một khối gồm nhiều tế bào được gọi là khối u. Các khối u lớn lên và xâm lấn vào khu vực của các mô và các cơ quan xung quanh, chiếm đoạt oxy và chất dinh dưỡng của chúng.

Nếu các tế bào lympho di chuyển từ hạch bạch huyết này sang hạch bạch huyết khác hoặc sang những cơ quan khác, ta gọi đây là hiện tượng ung thư di căn. Ung thư bạch huyết tiến triển ra bên ngoài mô bạch huyết được gọi là ung thư bạch huyết ngoài hạch.

Mỗi năm tại Hoa Kỳ có khoảng 54.000 người được chẩn đoán bị ung thư bạch huyết không-Hodgkin, và 7.000 người được chẩn đoán bị ung thư bạch huyết Hodgkin. Nó là loại ung thư máu thường gặp nhất tại Hoa Kỳ. Tại Châu Âu, người ta phát hiện ra khoảng 50.000 trường hợp ung thư bạch huyết không-Hodgkin mỗi năm.

Phân loại ung thư bạch huyết

Có 2 loại ung thư bạch huyết: ung thư bạch huyết Hodgkin (còn được gọi là bệnh Hodgkin) và không-Hodgkin. Cả hai loại này có thể xảy ra ở những vị trí giống nhau và gây ra những triệu chứng tương tự nhau. Sự khác biệt của chúng chỉ nhận biết được qua kính hiển vi.

Ung thư bạch huyết Hodgkin xuất phát từ một dòng tế bào B bất thường đặc hiệu. Có 5 loại ung thư bạch huyết Hodgkin. Ung thư bạch huyết không-Hodgkin có thể xuất phát từ các tế bào B hoặc T bất thường và có khoảng 30 loại được phân biệt bằng những chất đánh dấu di truyền đặc hiệu. Do ung thư bạch huyết có rất nhiều nhóm nhỏ nên việc phân loại chúng rất phức tạp và phải dựa vào những đặc điểm vi thể, di truyền, và hình dạng phân tử.

Mặc dù có vài loại ung thư bạch huyết không-Hodgkin có vẻ tương tự nhau nhưng chúng có cơ chế khác nhau và đáp ứng khác nhau với điều trị. Các thể ung thư bạch huyết Hodgkin được phân biệt dựa trên những khác biệt vi thể quan sát được qua kính hiển vi cũng như mức độ lan rộng của bệnh.

Nguyên nhân ung thư bạch huyết

Về cơ bản thì ung thư là kết quả của các tế bào phát triển không kiểm soát và không chết đi. Các tế bào bình thường trong cơ thể tuân theo một con đường bất di bất dịch là: lớn lên, phân chia và chết đi. Sự chết đi của tế bào theo chương trình được gọi là apoptosis, và nếu như quá trình này bị phá hủy thì ung thư sẽ xảy ra. Các nhà khoa học không biết chính xác nguyên nhân gây ra ung thư bạch huyết nhưng họ đã xác định được một số yếu tố nguy cơ.

Di truyền: Ung thư bạch huyết có thể là kết quả của di truyền từ những thành viên trong gia đình. Một người được sinh ra với những đột biến gen nhất định hoặc một chỗ sai sót trong gen làm cho người này về mặt thống kê dễ phát triển thành ung thư sau này.

Các yếu tố khác: Khi chúng ta càng lớn tuổi thì những đột biến có thể gây ung thư trên DNA càng xuất hiện nhiều hơn. Nguy cơ bị ung thư bạch huyết không-Hodgkin gia tăng khi lớn tuổi và ung thư bạch huyết Hodgkin thường gặp nhất ở độ tuổi từ 16-34 và từ 55 tuổi trở lên. Ngoài ra, những bệnh khác có thể làm gia tăng tỷ lệ bị ung thư bạch huyết bao gồm: nhiễm HIV, nhiễm virus tế bào T type 1 ở người (HTLV-1: human T-lymphocytic virus type 1), nhiễm Epstein-Barr virus, nhiễm Helicobacter pylory, hoặc virus viêm gan B hoặc C; các bệnh tự miễn (chẳng hạn như bệnh lupus); những bệnh cần phải được điều trị ức chế miễn dịch; và những bệnh gây suy giảm miễn dịch khác.

Triệu chứng ung thư bạch huyết

Các triệu chứng của ung thư khá khác nhau và tùy thuộc vào vị trí của ung thư, nơi mà nó lan rộng, và độ lớn của khối u. Ung thư bạch huyết thường có biểu hiện đầu tiên là cảm thấy có những chỗ sưng nề ở cổ, nách, hoặc bẹn. Ngoài ra, có thể thấy những vị trí sưng nề khác ở nơi các hạch bạch huyết xuất hiện, chẳng hạn như ở lách. Thông thường, các hạch bạch huyết lớn có thể xâm lấn khu vực các mạch máu, dây thần kinh, hoặc dạ dày, làm cho bệnh nhân bị sưng nề tay, chân, tê ngứa, hoặc cảm thấy đầy bụng.

Ung thư bạch huyết còn có các triệu chứng không đặc hiệu, chẳng hạn như sốt, lạnh run, sụt cân không rõ nguyên nhân, đổ mồ hôi đêm, lơ mơ, và ngứa ngáy.

Chẩn đoán và phân độ ung thư bạch huyết

Để chẩn đoán bệnh ung thư bạch huyết, các bác sĩ sẽ cần phải khám thực thể cũng như được cung cấp một bệnh sử cá nhân và gia đình đầy đủ rồi sau đó sẽ xem xét các kết quả của một số loại xét nghiệm.

Xét nghiệm máu sẽ được dùng để kiểm tra các tế bào máu, chức năng của thận và gan. Bác sĩ cũng có thể khảo sát một chất hóa học có tên là Lactase Hydrogenase (LDH), khi nồng độ của chất này cao thường là dấu hiệu gợi ý của bệnh ung thư bạch huyết không-Hodgkin thể xâm lấn.

Một số kỹ thuật hình ảnh có thể được sử dụng để tìm sự hiện diện của ung thư và mức độ lan rộng của chúng. Một số kỹ thuật thường dùng bao gồm:

X quang

CT scan

Cộng hưởng từ

Chụp mạch bạch huyết (bạch huyết đồ).

Chụp bằng galli.

PET scan.

Các bác sĩ còn có thể kiểm tra tủy xương để xem ung thư bạch huyết có ảnh hưởng đến tủy xương hay không. Các mẫu tủy xương thường được lấy từ xương chậu để tìm sự hiện diện của các tế bào B hoặc T bất thường.

Cách duy nhất có thể chẩn đoán được ung thư là lấy đi một mẫu nhỏ của khối u và xem xét chúng dưới kính hiển vi bằng một thủ thuật được gọi là sinh thiết. Các bác sĩ sẽ thu thập mẫu bằng cách đâm kim qua da, phẫu thuật, hoặc nội soi. Nhà giải phẫu bệnh học sẽ khảo sát những mẫu lấy được dưới kính hiển vi để xác định xem ung thư có hiện diện hay không.

Sau khi chẩn đoán được thiết lập, các bác sĩ sẽ phân tích mẫu mô và các kết quả xét nghiệm để xem thử ung thư đã lan truyền đến đâu và xác định giai đoạn của ung thư. Giai đoạn ung thư giúp các bac sĩ biết những lựa chọn điều trị nào là thích hợp và nó còn nói lên tiên lượng của bệnh nhân.

Cách phân loại thường gặp và đơn giản của ung thư bạch huyết Hodgkin là xem nó lớn (tiên lượng xấu) hay nhỏ (tiên lượng tốt hơn). Loại không-Hodgkin được phân loại dựa theo tính chất vi thể, vị trí trong cơ thể, và những tính chất gen và phân tử. Nó thường được chia ra làm 3 cấp độ. Cấp độ thấp là các khối ung thư bạch huyết phát triển chậm và thường không cần phải điều trị ngay lập tức. Cấp độ trung bình là khi các khối ung thư phát triển nhanh và cần phải điều trị ngay lập tức. Chúng thường có thể trị khỏi được. Còn cấp độ cao là khi các khối u lớn nhanh và có tính xâm lấn, và cần phải được điều trị ngay lập tức và điều trị tích cực, chúng thường không còn trị khỏi được nữa.

Ung thư bạch huyết Hodgkin và không-Hodgkin có cùng một hệ thống phân độ để diễn tả mức độ lan tràn của bệnh:

Giai đoạn I hoặc bệnh giai đoạn sớm là khi ung thư bạch huyết xuất hiện ở một vùng hạch bạch huyết đơn độc hoặc chỉ có ở một cơ quan đơn độc ngoài hạch bạch huyết.

Giai đoạn II hoặc bệnh tiến triển cục bộ là khi ung thư bạch huyết xuất hiện ở từ hai vùng hạch bạch huyết trở lên ở cùng một phía của cơ hoành hoặc một vùng hạch bạch huyết và mô hoặc cơ quan kế cận.

Giai đoạn III hoặc bệnh tiến triển là khi ung thư bạch huyết ảnh hưởng đến từ hai hạch lympho trở lên hoặc một hạch và một cơ quan ở hai phía đối diện của cơ thể.

Giai đoạn IV hoặc bệnh lan rộng là khi ung thư bạch huyết lan đến lách, tủy xương, xương, hoặc hệ thần kinh trung ương.

Cả 2 loại ung thư bạch huyết còn được phân loại ra thành: A là không có những triệu chứng như sốt và sụt cân, B là có những triệu chứng trên, hoặc E để chỉ khối u đã xâm lấn trực tiếp từ hạch bạch huyết sang một cơ quan nào đó.

Điều trị ung thư bạch huyết

Điều trị tùy thuộc vào loại ung thư, phân độ của ung thư (mức độ lan tràn của nó), tuổi tác, tình trạng sức khỏe, đã từng được điều trị trước đó chưa, và những đặc điểm cá nhân kèm theo. Điều trị ung thư bạch huyết thường nhằm mục tiêu làm bệnh thuyên giảm hoàn toàn, là tình trạng các tế bào ung thư bạch huyết trong cơ thể có thể vẫn còn nhưng không phát hiện ra được và không gây ra triệu chứng gì. Những phương pháp điều trị ung thư bạch huyết thường được dùng bao gồm hóa trị, xạ trị, và liệu pháp sinh học.

Mục tiêu cuối cùng của việc điều trị ung thư bạch huyết là đạt được tình trạng thuyên giảm kéo dài. Nếu ung thư xuất hiện trở lại, tình trạng này được gọi là tái phát. Sau khi điều trị, bệnh nhân có thể sẽ thấy cải thiện (khối u thu nhỏ lại), bệnh ổn định (khối u vẫn giữ nguyên kích thước cũ), tiến triển (bệnh xấu đi), hoặc khó trị (khối u đề kháng với điều trị).

Hóa trị

Hóa trị là cách dùng các hóa chất ngăn cản quá trình phân chia của tế bào – tấn công protein hoặc DNA – làm cho các tế bào tự chết đi. Cách trị liệu này nhắm đến bất kỳ tế bào nào phân chia nhanh chóng (không nhất thiết chỉ có các tế bào ung thư), tuy nhiên các tế bào khỏe mạnh thường có thể tự phục hồi sau khi bị tổn thương trong khi đó các tế bào ung thư thì không thể. Hóa trị thường được dùng để điều trị những loại ung thư đã di căn do những loại thuốc này có thể di chuyển đến khắp cơ thể. Điều trị được thực hiện theo chu kỳ, do đó cơ thể có thời gian để phục hồi giữa các đợt điều trị. Tuy nhiên, vẫn còn một số tác dụng phụ có thể gặp bao gồm: rụng lông tóc, buồn nôn, mệt mỏi, và nôn ói. Các biện pháp điều trị phối hợp thường là kết hợp nhiều cách hóa trị khác nhau hoặc phối hợp giữa hóa trị với những phương pháp điều trị khác.

Xạ trị

Xạ trị tiêu diệt ung thư bằng các hướng chùm tia năng lượng cao đến các tế bào ung thư để gây ra những tổn thương trên các phân tử tào thành các tế bào ung thư và làm cho chúng tự chết đi. Xạ trị sử dung tia gamma năng lượng cao được phát ra từ những kim loại như radium hoặc tia X năng lượng cao được tạo thành từ máy. Xạ trị có thể được sử dụng một mình để thu nhỏ khối u lại hoặc để tiêu diệt các tế bào ung thư, và nó còn được dùng phối hợp với những phương pháp điều trị ung thư khác.

Các tác dụng phụ của hóa trị bao gồm những thay đổi nhẹ trên da tương tự như cháy nắng hoặc rám nắng, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, và mệt mỏi. Các bệnh nhân có khuynh hướng ăn mất ngon, khó giữ được cân nặng cũ, nhưng hầu hết các tác dụng phụ thường sẽ biến mất vài tuần sau khi kết thúc điều trị

Phòng ngừa ung thư bạch huyết

Vẫn chưa phát hiện ra cách nào để phòng ngừa bệnh ung thư bạch huyết. Tuy nhiên, các bác sĩ khuyên nên tránh những yếu tố nguy cơ đã được liệt kê ở phía trên và tránh nhiễm virus và mắc những loại bệnh làm ức chế hệ miễn dịch của cơ thể.

Ung Thư Bạch Huyết (Lymphoma) Và Những Điều Cần Biết Về Ung Thư Bạch Huyết

Ung thư bạch huyết (lymphoma) là gì?

Ung thư bạch huyết là một dạng ung thư máu. Hệ thống bạch huyết là một loạt các hạch bạch huyết và mạch bạch huyết di chuyển chất lỏng trong cơ thể. Chất lỏng bạch huyết có chứa các tế bào máu trắng chống nhiễm trùng. Các bạch huyết hoạt động như bộ lọc, thu giữ và tiêu diệt vi khuẩn và virus giúp ngăn ngừa nhiễm trùng lây lan.

Trong khi hệ thống bạch huyết bảo vệ cơ thể thì các tế bào bạch huyết được gọi là các tế bào lympho lại có thể trở thành ung thư. Bệnh ung thư xảy ra trong hệ thống bạch huyết được gọi là u lympho.

Các loại ung thư máu hệ bạch huyết

Có hai loại u lympho chủ yếu là u lympho Hodgkin (HL) và u lympho không Hodgkin (NHL). Những người có bệnh u lympho Hodgkin có các tế bào ung thư lớn có tên là Reed-Sternberg. Những người mắc bệnh u lympho không Hodgkin thì không có tế bào này. Trường hợp mắc bệnh u lympho không Hodgkin thường nhiều hơn gấp ba lần trường hợp u lympho Hodgkin.

U lympho không Hodgkin (NHL)

Các bác sĩ gọi loại NHL dựa trên các tế bào bị ảnh hưởng và sự phát triển nhanh hay chậm của các tế bào. NHL xuất hiện cả ở trong tế bào B hoặc tế bào T của hệ miễn dịch. Hầu hết các loại NHL thường ảnh hưởng tới tế bào B. Trong đó bao gồm:

U lympho tế bào B.

U Lympho nang.

Burkitt lymphoma.

U lympho tế bào lớp vỏ.

U lympho tế bào B trung thất.

Lymphoma Lymphocytic nhỏ.

U lympho lymphoplasmacytic.

U lympho Hodgkin (HL)

U lympho Hodgkin thường bắt đầu trong tế bào B hoặc tế bào được gọi là Reed-Sternberg của hệ miễn dịch. U lympho Hodgkin bao gồm các loại:

U lympho Hodgkin cạn kiệt tế bào lympho.

U lympho hodgkin hỗn hợp cellularity.

U lympho hodgkin xơ nhiều u nhỏ.

U lympho hodgkin cổ điển giàu tế bào bạch huyết.

Nguyên nhân gây bệnh ung thư bạch huyết

Cũng giống như các bệnh ung thư khác cho đến nay nguyên nhân gây ra ung thư máu hệ bạch huyết vẫn chưa được xác định cụ thể. Tuy nhiên có một số người có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những người khác bởi một vài nguyên nhân. Những người này thường là những người mắc chứng rối loạn hệ thống miễn dịch như:

Có các virus làm suy giảm miễn dịch ở người như HIV.

Những người dùng thuốc chống thải ghép sau ghép nội tạng.

Những người có hệ thống miễn dịch bị rối loạn do di truyền.

Những người đã bị nhiễm trùng chẳng hạn như bị viêm gan C, heliobacter pylori, virus Epstein-Barr, T-cell leukemia/virus lympho (HTLV-1) sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

Những người tiếp xúc với hóa chất trong thuốc trừ sâu, phân bón, thuốc diệt cỏ cũng có nguy cơ mắc bệnh cao.

Những người đã từng trải qua xạ trị.

Triệu chứng của ung thư bạch huyết

Hầu hết bệnh nhân ung thư bạch huyết cho biết có sự xuất hiện đầu tiên của các hạch bạch huyết sưng lên. Họ cũng có thể cảm thấy xuất hiện các nốt sần nhỏ dưới da. Một số người thấy xuất hiện các hạch ở cổ, ngực, nách, dạ dày, háng.

Ung thư bạch huyết cũng có thể không gây ra các triệu chứng bệnh ở giai đoạn sớm. Cũng có lúc bác sĩ lại phát hiện ra những hạch to bằng cách kiểm tra thể chất.

Chuẩn đoán ung thư bạch huyết bằng cách nào?

Khi phát hiện tế bào ung thư bạch huyết sẽ tiếp tục thử nghiệm để xác định ung thư đã lan rộng tới đâu. Bác sĩ có thể thực hiện chụp X-quang, xét nghiệm máu, kiểm tra hạch bạch huyết hoặc mô gần đó, chụp CT hoặc chụp cộng hưởng từ MRI để xác định các u bổ sung hoặc hạch to.

Ung Thư Hạch Bạch Huyết (Lymphoma)

23-04-2009

Những bệnh ung thư bắt đầu từ hệ thống hạch bạch huyết được gọi là các u lympho. Có hai loại chính là: u lympho Hodgkin và u lympho không Hodgkin. Mặc dù đó là hai loại u lympho, vẫn có sự khác nhau giữa chúng, vì thế việc điều trị cũng khác nhau

I- U LYMPHO HODGKIN (HODGKIN LYMPHOMA)

– Bệnh u lympho Hodgkin được bác sĩ Thomas Hodgkin mô tả lần đầu tiên năm 1832. Bệnh Hodgkin là một trong những loại lymphoma (ung thư hạch bạch huyết), là ung thư có nguồn gốc từ hệ bạch huyết. Ung thư hạch bạch huyết gồm hai loại chính: Hodgkin và Không-Hodgkin.

– Hệ thống bạch huyết là một phần trong hệ thống miễn dịch của cơ thể. Hệ thống miễn dịch này có nhiệm vụ chống lại các bệnh lý nhiễm trùng cùng các loại bệnh lý khác.

– Hệ bạch huyết có 2 thành phần chính:

+ Mạng lưới các mạch bạch huyết.

+ Các hạch bạch huyết: có kích thước từ vài mm đến hơn 1 cm, thường xếp thành nhóm. Hạch bạch huyết là nơi khống chế và loại trừ những vi sinh vật cùng các chất nguy hại cho cơ thể. – Hệ bạch huyết còn là mạng lưới gồm nhiều mạch bạch huyết, phân nhánh tương tự mạch máu, đi vào các mô ở khắp cơ thể.

– Mạch bạch huyết dẫn bạch huyết, một chất lỏng không màu sắc, chứa những tế bào lympho, hiện diện khắp cơ thể. Trong mạng lưới này, có những bộ phận nhỏ gọi là hạch bạch huyết. Các hạch bạch huyết là các hạt nhỏ nằm khắp cơ thể. Mỗi hạch có kích thước từ đầu đinh ghim đến bằng hạt đậu, thường xếp thành nhóm hay chuỗi hạch. Từng nhóm hạch bạch huyết nằm trong nách, hai bên bẹn, cổ, ngực, và ổ bụng.

Ngoài các hạch bạch huyết, lá lách, tuyến hung (thymus), amidan và tủy xương là những thành phần khác của hệ bạch huyết. Dạ dày, hỗng tràng và da cũng có những tế bào và mô bạch huyết.

Tế bào lymphô nằm trong hạch bạch huyết, nếu sự phát triển bị rối loạn và trở thành ung thư, thì gọi là ung thư nguyên phát tại hạch. Phân biệt với hạch do ung thư di căn. Các tế bào lymphô ác tính không chỉ hiện diện ở các hạch bạch huyết mà còn ở những nơi khác.

– Hạch thường xuất hiện đầu tiên ở hố thượng đòn bên trái (gấp 6 lần nhiều hơn bên phải), kích thước có thể nhỏ như hạt táo nhưng cũng có thể to bằng quả cam. Lúc đầu các hạch mọc riêng rẽ nên dễ nắn, giới hạn rõ rệt. Về sau các hạch có thể dính vào thành từng đám. Hạch ít khi bị loét gây nên lỗ rò ngoài da. Hạch thường không đau và khá chắc.

– Bệnh thường gặp ở người lớn, tiến triển thành từng đợt. Mỗi đợt người bệnh thường bị sốt, ngứa và có số lượng hạch tăng nhiều hơn. Xét nghiệm máu có thể thấy tăng bạch cầu ái toan.

– Cần chú ý tìm hạch ở nội tạng như trung thất , mạc treo. Trường hợp bệnh khởi đầu bằng các hạch to ở trung thất thì rất khó chẩn đoán, vì có khi cần phải chờ đến những đợt tiến triển kế tiếp để hạch xuất hiện ở ngoại vi.

– Chẩn đoán xác định bằng sinh thiết hạch, thấy có hình thái đa dạng tế bào và nhất là tìm thấy tế bào Sternberg. – U lymphô (lymphôm) gồm 2 dạng chính là lymphôm Hodgkin và lymphôm không Hodgkin. Ung thư hạch loại không Hodgkin nhiều gấp 5 lần loại Hodgkin.

– Khi bị ung thư Hodgkin, các tế bào trong hệ bạch huyết trở nên bất thường, chúng sinh sôi nảy nở rất nhanh và sinh sản vô trật tự. Hệ bạch huyết hiện diện ở nhiều cơ quan, bộ phận của cơ thể, do đó khi ung thư bạch huyết xuất hiện, nó có thể xuất hiện tại bất cứ vị trí nào của cơ thể.

Bệnh Hodgkin có thể khởi phát từ một hay nhiều hạch bạch huyết, hoặc từ một bộ phận chứa hạch bạch huyết như lá lách hoặc tủy xương. Loại ung thư này thường phát triển từ nhóm hạch bạch huyết này sang nhóm hạch kế cận. Ví dụ, bệnh Hodgkin khởi phát từ hạch bạch huyết ở cổ sẽ lan đến những hạch bạch huyết ở vùng lân cận như vùng xương đòn, sau đó lan đến những hạch bạch huyết dưới nách và lồng ngực. Cuối cùng, bệnh sẽ lan rộng đến khắp cơ thể.

A. Các yếu tố gia tăng nguy cơ bị bệnh Hodgkin

Tuy nguyên nhân gây bệnh Hodgkin chưa biết rõ, cũng đã xác định được một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh:

– Tuổi và giới tính: Bệnh Hodgkin thường gặp ở những người tuổi từ 15-34 và trên 55 tuổi, nam nhiều gấp đôi nữ

– Người có thân nhân bị Hodgkin có nguy cơ bị ung thư Hodgkin cao hơn những người khác

Nhiễm trùng: Virus Epstein-Barr (EBV) có thể gia tăng nguy cơ mắc bệnh Hodgkin.

Người bị suy yếu hệ miễn dịch do bất kỳ nguyên nhân nào (HIV/AIDS, do sử dụng thuốc, sau đợt điều trị ung thư, do mẹ truyền sang con…)

Tuy nhiên, cũng có những trường hợp bệnh Hodgkin mà không thấy các yếu tố nguy cơ trên.

B. Triệu chứng

– Phì đại (nhưng không đau) các hạch bạch huyết ở cổ, nách, háng

– Sốt hồi quy không rõ nguyên nhân

– Ra mồ hôi ban đêm

– Sút cân

– Ngứa ngáy

Các triệu chứng này không nhất thiết phải do bệnh Hodgkin gây ra, nhưng nên đi khám để tìm nguyên nhân.

– Đừng đợi đến khi hạch bạch huyết trở nên đau.

– Bệnh Hodgkin lúc khởi đầu thường không gây đau.

C. Chẩn Đoán

Ngoài việc hỏi bệnh sử, cần khám tổng quát để phát hiện tình trạng phì đại các hạch bạch huyết. Có thể dùng thêm một số xét nghiệm để chẩn đoán như:

– Xquang phổi, xương

– Siêu âm bụng

– CT scan nhiều bộ phận của cơ thể

– MRI nhiều bộ phận của cơ thể

– Gallium scan

– PET (Positron Emission Tomography) scan

– Chụp mạch bạch huyết (lymphangiogram): Tiêm một loại hóa chất cản quang vào tĩnh mạch, rồi chụp Xquang để có được hình ảnh của hạch và mạch bạch huyết

– Sinh thiết hạch bạch huyết để xét nghiệm, tìm dấu vết các tế bào Reed-Sternberg, là những tế bào bất thường, rất lớn thường gặp trong bệnh Hodgkin. Số lượng tế bào càng cao, ung thư càng nặng.

– Xét nghiệm tuỷ đồ

Giải phẫu bệnh lý: có giá trị chẩn đoán quyết định, phân loại thể bệnh và mức độ ác tính: – Là tổ chức Sternberg (tổ chức hạt)

– Tổ chức này gồm: tế bào Sternberg, các lymphocytes, eosinophile, neutrophile, plasmocyte, tế bào sợi… – Tế bào Sternberg là tế bào đặc trưng: kích thước 30-60µm, nguyên sinh chất nhiều bắt màu kiềm, có từ 1-3 nhân. Nhân có hạt nhân và khoảng sáng quanh nhân. Đây là các tế bào dòng lympho: chúng phát triển mạnh làm đảo lộn, phá vỡ cấu trúc hạch, các vỏ xơ bao quanh hạch bị phá huỷ. – Tế bào Lympho biến đổi về hình thái, mang đặc điểm của tế bào ung thư: nhân lớn, nhân quái, nhân đang phân chia.

* Tóm lại:

– Hodgkin = tế bào Sternberg, tế bào viêm (N, E, P).

– Non Hodgkin: lymphoblast hình thù quái dị.

D. Xác định giai đoạn của ung thư

Sau khi chẩn đoán bệnh Hodgkin, cần xác định giai đoạn của ung thư, xem ung thư đã di căn chưa, và nếu có, đã di căn đến đâu, trước khi quyết định điều trị.

– Có bao nhiêu vị trí hạch bạch huyết đã bị ung thư?

– Các hạch bạch huyết đã ung thư hoá này nằm ở vị trí nào của cơ thể?

– Các khối hạch nằm ở một bên hay cả hai bên cơ hoành?

– Ung thư đã di căn đến tủy xương, lách?

– Đã di căn đến những bộ phận khác (ngoài các bộ phận chính của hệ bạch huyết) như gan?

Giai đoạn

“Giai đoạn” là một thuật ngữ dùng để mô tả kích thước, vị trí của ung thư và có di căn hay không. Điều này rất quan trọng bởi vì loại điều trị được áp dụng cho bệnh nhân phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh. Hệ thống phân loại của bệnh Hodgkin là:

– Giai đoạn I: Một nhóm các hạch bạch huyết bị ảnh hưởng nhưng u lympho chỉ ở một phía của cơ hoành. – Giai đoạn II: Hai hoặc nhiều hơn các nhóm hạch bạch huyết bị ảnh hưởng và u lympho chỉ bị ở một phía của cơ hoành.

– Giai đoạn III: Có các tế bào u lympho trong các hạch bạch huyết ở trên và dưới cơ hoành. Lách cũng có thể bị tổn thương.

– Giai đoạn IV: U lympho đã lan tràn ra ngoài các hạch bạch huyết, ví dụ như đến gan, phổi hoặc tuỷ xương.

– Cùng với việc đánh số cho mỗi giai đoạn, các bác sĩ còn sử dụng một mã ký tự, chữ A hoặc B để cho biết bệnh nhi có những triệu chứng cụ thể như sốt, giảm cân đáng kể (hơn 1/10 trọng lượng cơ thể trong 6 tháng gần đây nhất) hoặc ra mồ hôi ban đêm. Nếu bệnh nhân không có những triệu chứng đó thì u lympho sẽ được phân loại là A, còn nếu chúng có những triệu chứng đó thì được xếp độ là B.

– Khi khám ung thư định kỳ, có thể cần dùng các xét nghiệm trên hoặc sinh thiết gan, tủy xương, và những bộ phận khác.

– Khi sinh thiết tủy xương: Dùng một kim dài, đâm xuyên qua lớp cơ đến xương chậu để hút tủy xương. Đôi khi, cần phải dùng đến phương pháp nội soi ổ bụng để lấy mô làm sinh thiết

E. Điều trị

1. Chuẩn bị cho việc chữa trị: Người bị bệnh Hodgkin nên tiêm phòng cúm, viêm phổi, viêm màng não.

2. Các phương thức điều trị: Xạ trị và hóa trị là hai phương thức điều trị thông thường nhất. Các phương pháp điều trị khác như cấy ghép tủy xương, ghép tế bào gốc, và trị liệu sinh học (biological therapy), điều trị trúng mục tiêu (target therapy) còn đang trong vòng thử nghiệm lâm sàng (clinical trial).3. Xạ Trị: Dùng tia xạ để thiêu huỷ tế bào ung thư. Tùy theo giai đoạn của bệnh, có thể dùng xạ trị đơn độc hoặc kết hợp với hoá trị liệu. Tia xạ dùng điều trị bệnh Hodgkin là tia ngoài. Dùng máy chiếu tia xạ nhắm tới một bộ phận của cơ thể để điều trị tại chỗ khối u (local therapy)4. Hóa trị: Phối hợp nhiều loại hóa chất (combination chemotherapy) để điều trị bệnh Hodgkin theo từng đợt. Đa số các hóa chất đều được dùng tiêm truyền tĩnh mạch, một vài loại thuốc dùng đường uống. Thuốc theo máu luân lưu khắp cơ thể, nên được xem là điều trị toàn thân (systemic therapy).

– Phác đồ ABVD (Adriamycin, bleomycin, vinblastine, dacarbazine) do Gianni Bonadonna và các đồng sự phát triển vào những năm 1970. Phối hợp này hiện đang là phác đồ điều trị chuẩn cho bệnh Hodgkin.

– Phác đồ Stanford V (doxorubicin, vinblastine, mustard, bleomycin, vincristine, etoposide, prednisone) phát triển tại đại học Stanford University bởi Sandra Horning và các đồng sự. Dùng phối hợp nhiều thuốc trong một thời gian ngắn để giảm bớt tác dụng phụ

– Phác đồ BEACOPP (bleomycin, etoposide, doxorubicin, cyclophosphamide, vincristine, procarbazine, prednisone) được phát triển ở Đức bởi Volker Diehl và đồng sự.

– Các phác đồ điều trị cứu nguy: Dùng khi các phác đồ điều trị đầu tay thất bại:

+ ICE (ifosfamide, carboplatin, etoposide),

+ DHAP (cisplatin, cytarabine, prednisone), và

+ ESHAP (etoposide, methylprednisolone, cytarabine, cisplatin).

+ EPOCH ( etoposide, vincristine, doxorubicin, cyclophosphamide, Prednisone)

F. Biến chứng

Khi điều trị bệnh Hodgkin, thường dùng các liệu pháp đủ mạnh để diệt tế bào ung thư, nhưng cũng gây tổn thương cả những tế bào bình thường, do đó sẽ gây ra nhiều biến chứng. Các biến chứng thường tùy thuộc vào loại hóa chất, liều lượng, cùng với lượng tia xạ sử dụng. Có thể phối hợp thêm các loại thuốc giảm đau, chống nôn v.v. để giúp bệnh nhân chịu đựng được việc điều trị.

1. Xạ Trị: Biến chứng tùy thuộc vào vị trí cơ thể được điều trị, bệnh nhân thường yếu sức và mệt mỏi:

– Rụng tóc, rụng lông, viêm đỏ, khô rát, thẫm màu nơi vùng da chiếu tia

– Xạ trị vùng cổ, ngực: khô, rát họng, nuốt khó, ho khan, khó thở

– Xạ trị vùng bụng: buồn nôn, nôn, tiêu chảy, tiểu rát

– Xạ trị vùng xương chậu: Mất máu, dễ nhiễm trùng hoặc xuất huyết.

Khi xảy ra các biến chứng này, nên ngưng xạ trị một thời gian cho tủy xương hồi phục trước khi tiếp tục điều trị

2. Hóa Trị Liệu: Tùy theo loại hóa chất và liều lượng thuốc sử dụng. Nhìn chung, các loại hóa chất điều trị bệnh Hodgkin thường ảnh hưởng đến những tế bào có tốc độ tăng trưởng nhanh của cơ thể. Các tế bào đó là:

– Tế bào máu: bạch cầu (giúp cơ thể chống lại sự nhiễm trùng), tiểu cầu (làm đông máu), hồng cầu (đem oxygen đi khắp cơ thể). Các tế bào máu bị hủy hoại khiến bệnh nhân thường dễ bị nhiễm trùng, xuất huyết (do máu không đông), và cảm thấy yếu sức, mệt mỏi (do thiếu máu, thiếu oxygen).

– Tế bào ở chân tóc bị hủy hoại gây rụng tóc. Tóc có thể mọc trở lại nhưng màu tóc và sợi tóc có thể thay đổi.

– Niêm mạc hệ tiêu hóa (từ miệng đến hậu môn): bệnh nhân bị lở miệng, môi, tiêu chảy, biếng ăn.

3. Cấy ghép tủy xương (bone marrow transplantation): Khi phải điều trị với một lượng hóa chất và tia xạ quá cao, các bệnh nhân thường bị nhiễm trùng, xuất huyết và kiệt sức. Ngoài ra, tế bào tủy dùng cho ghép có thể phản ứng lại với cơ thể (graft-versus-host disease, GVHD), nhất là trong trường hợp dị ghép (tế bào ghép đến từ người hiến tặng). Khi xảy ra GVHD, gan, da, và bộ phận tiêu hóa bị ảnh hưởng. Triệu chứng của GVHD có thể nhẹ (tiêu chảy, da tấy đỏ) hoặc rất nặng (viêm gan) và xảy ra ở bất cứ thời điểm nào trong thời gian ghép tủy, ngay cả nhiều năm sau khi điều trị. Dùng steroid để điều trị phản ứng này.

4. Trị liệu Sinh học: Các biến chứng thông thường như da ngứa ngáy, tấy đỏ, sốt, đau cơ, nhức đầu, là những triệu chứng tương tự cảm cúm (nên gọi là “flu-like”). Ngoài ra, bệnh nhân còn có thể dễ bị chảy máu, giữ nước.

5. Phẫu Thuật: Biến chứng tùy thuộc vào vị trí mổ, phương pháp phẫu thuật và tình trạng sức khoẻ chung của bệnh nhân. Biến chứng thường gặp là mất sức, mệt mỏi nhiều ngày sau phẫu thuật.

G. Những tác dụng phụ muộn

– Một số ít trẻ em có thể gặp những tác dụng phụ sau nhiều năm. Các tác dụng phụ đó bao gồm sự giảm phát triển xương, thay đổi chức năng của tim và phổi, tăng nguy cơ phát triển các bệnh ung thư khác trong thời gian sau của cuộc đời.

– Sau khi điều trị bằng hoá chất, một số trẻ em (đặc biệt là các bé trai) có thể bị vô sinh. Cha mẹ của các cậu bé lứa tuổi thanh thiếu niên có thể tính đến việc sử dụng ngân hàng tinh trùng trước khi việc điều trị bắt đầu. Khi đó, tinh trùng sẽ được lưu giữ, bảo quản để có thể sử dụng trong những năm sau này.

– Bác sĩ của bệnh nhi cần giải thích thật kỹ về các tác dụng phụ muộn bất kỳ nào đó

H- Tiếp tục theo dõi

– Khoảng 9/10 trẻ em bị u lympho Hodgkin được chữa khỏi. Nếu ung thư tái phát, cần phải điều trị với liều cao hơn hoặc sử dụng các loại thuốc khác.

– Sau khi kết thúc việc điều trị, bệnh nhi sẽ được kiểm tra thường xuyên bằng chụp cắt lớp vi tính và các xét nghiệm huyết học tại bệnh viện.

– Trường hợp người bệnh đang có thai, tùy tình huống, BS có thể cho nạo phá thai hoặc cho sanh sớm hơn dự định. Thai kỳ cũng là một yếu tố làm bùng phát bệnh Hodgkin. Bệnh nhân chỉ được phép có thai trở lại khi bệnh đã được điều trị khỏi hoàn toàn và không cần sử dụng bất kỳ phương thức điều trị nào khác trong khoảng thời gian tối thiểu là 3 năm.

– Hóa trị & xạ trị đều gây suy yếu hệ thống miễn dịch. Do đó, song song với việc điều trị, bệnh nhân nhất thiết phải được nghỉ ngơi hoàn toàn để phòng tránh các bệnh cơ hội khác như cảm lạnh, cúm hoặc các viêm nhiễm hô hấp, tiêu chảy, Nên phòng tránh các vết cắt, trầy xước hoặc chấn thương có thể xảy ra trong quá trình tập thể dục. Nên tích cực vận động sớm, sau mỗi đợt điều trị

– Một vài bệnh nhân bị suy sụp tinh thần sau những đợt điều trị, lúc đó vai trò của các BS tâm lý là rất cần thiết. Người bệnh nên tham gia vào các hoạt động xã hội, hiệp hội hoặc các nhóm bệnh nhân cùng cảnh ngộ để cùng trao đổi với nhau tất cả những kinh nghiệm về bệnh và tâm tư tình cảm của mình. – Việc tái khám định kỳ rất quan trọng. Hầu hết lymphôm Hodgkin không tái phát sau điều trị. Tuy nhiên cũng có một số ít trường hợp bị tái phát. Sau khi điều trị, hầu hết các bệnh nhân Hodgkin đều trở về cuộc sống bình thường, vẫn có thể lập gia đình và sinh sản như những người khác.

II- U LYMPHO KHÔNG HODGKIN (Non Hodgkin Lymphoma)

U lymphô không Hodgkin nguyên phát là loại bệnh lý ung thư của hệ tạo huyết.

Tên gọi còn xa lạ với nhiều người, song bệnh này lại khá phổ biến. Tại Mỹ, năm 2006 có 58.870 trường hợp mới và 18.840 ca tử vong. Tại chúng tôi năm 2003, tỷ lệ bệnh ở nam giới là 4,6/100.000 dân và ở nữ giới là 3,2/100.000 dân. Bệnh Viện Ung Bướu chúng tôi mỗi năm tiếp nhận khoảng 500 trường hợp bệnh mới.

Được hình thành từ những rối loạn của dòng tế bào lymphô, bệnh thường hay xuất phát đầu tiên tại hạch. Ung thư hạch được xếp thành 2 nhóm lớn: nhóm có diễn tiến chậm, thời gian sống sót hơn 10 năm và nhóm có diễn tiến nhanh nên thời gian sống sót ngắn hơn.

Hiện vẫn chưa xác định được nguyên nhân gây bệnh. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã cho thấy có một số yếu tố nguy cơ:

– Suy giảm miễn dịch do nhiễm HIV, do dùng thuốc chống thải ghép…

– Nhiễm trùng (HIV, Helicobacter pylori, HCV…).

– Tuổi trên 60.

– Các yếu tố khác như béo phì, ngộ độc thuốc diệt cỏ, dioxin…

Về triệu chứng: nổi hạch, sụt cân, sốt kéo dài, ho, khó thở , đau ngực, mệt mỏi, suy kiệt kéo dài, đau trướng bụng, đầy bụng. Khi các triệu chứng kéo dài quá 2 tuần thì phải đi khám để tìm nguyên nhân.

A- Xác định bệnh

Lymphô không Hodgkin là một bệnh toàn thân rất khó chẩn đoán, cần phải khám lâm sàng (cổ, nách, bẹn, bụng), làm xét nghiệm máu, chụp X-quang ngực, siêu âm bụng, làm sinh thiết hạch.

B- Điều trị

– Lymphô không Hodgkin là một trong những loại ung thư có khả năng trị khỏi, cả trong giai đoạn muộn; ngay cả khi ung thư đã di căn thì vẫn còn đến 40% khả năng đáp ứng điều trị lâu dài.

– Khi đã xác định bị ung thư, việc xác định giai đoạn lâm sàng giúp cho việc tiên lượng bệnh. Các xét nghiệm cần làm là CT scan, MRI, siêu âm, làm tủy đồ. Bệnh có 4 giai đoạn: 1, 2, 3, 4. Ký hiệu A có nghĩa là không có triệu chứng, còn B là có triệu chứng (sốt, đổ mồ hôi đêm, sụt cân).

C- Các phương pháp điều trị

Lymphô không Hodgkin gồm tới 35 thể bệnh khác nhau, phương pháp điều trị cũng khác nhau. Một số trường hợp chỉ bắt đầu điều trị khi có triệu chứng. Phác đồ điều trị tùy thuộc vào diễn tiến và giai đoạn bệnh.

– Xạ trị: có vai trò trong một số ca bệnh ở giai đoạn 1.

– Hóa trị: là liệu pháp chủ yếu (truyền hóa chất qua đường tĩnh mạch hay uống hóa chất viên).

– Phương pháp điều trị đúng mục tiêu: là liệu pháp tiên tiến với các dược phẩm mới hữu hiệu, lại ít gây tác dụng phụ như rituximab (Mab-Thera). Tuy nhiên giá thuốc rất cao (khoảng 30 triệu đồng/lần điều trị).

– Ghép tế bào gốc (ghép tủy): được dùng trong các trường hợp có tiên lượng rất xấu, hoặc tái phát, hoặc không đáp ứng với điều trị.

Tại sao cần phân biệt Hodgkin và non-Hodgkin mặc dù các bệnh cảnh lâm sàng và phương thức điều trị gần như giống nhau? Vấn đề là ở chỗ tỷ lệ điều trị thành công cao hay thấp. Nếu bệnh nhân được chẩn đoán là non-Hodgkin & được điều trị triệt để, tỷ lệ điều trị dứt bệnh là trên 70%. Tỷ lệ này tăng lên đến trên 90% trong một số trường hợp ung thư hạch, đặc biệt trong nhóm non-Hodgkin.

BS. ĐỒNG NGỌC KHANH – BV Đa Khoa Hoàn Mỹ SàiGòn

Tham Khảo: Medscape, emedicine, tài liệu của Viện Ung Thư Mỹ, Viện Nhi Trung Ương, BV Ung Bướu TP HCM, BV Trung Ương Huế

Xét Nghiệm Sốt Xuất Huyết Tại Đà Nẵng.

Sốt xuất huyết thường có những dấu hiệu giống với sốt siêu vi hay sốt phát ban thông thường, vì vậy, nếu không phát hiện sẽ gây nên những biến chứng khó lường.  Cách tốt nhất để chẩn đoán chính xác xem bạn có bị Sốt Xuất Huyết hay không là xét nghiệm máu. Xét nghiệm máu giúp chẩn đoán sớm và xác định sốt xuất huyết ngày từ đầu. Giúp việc theo dõi và điều trị bệnh kịp thời, hạn chế biến chứng nguy hiểm của bệnh.

Các dấu hiệu của bệnh sốt xuất huyết:

Sốt xuất huyết được chia làm ba loại: sốt xuất huyết cổ điển ( thể nhẹ), sốt xuất huyết chảy máu và sốt xuất huyết dengue ( hội chứng sốc dengue).

Dấu hiệu của sốt xuất huyết cổ điển (thể nhẹ):

Sốt xuất huyết cổ điển thường gặp ở những người lần đầu tiên mắc bệnh. Những người mắc bệnh loại này thường có các triệu chứng điển hình và không có biến chứng. Triệu chứng của bệnh :

Sốt và kéo dài trong 4 – 7 ngày tính từ khi bị muỗi truyền bệnh.

Sốt cao, lên đến 40,5oC

Đau khớp và cơ.

Nhức đầu nghiệm trọng.

Đau ở hốc mắt, mỏi mắt.

Buồn nôn, ói

Phát ban.

Sau khi bắt đầu sốt khoảng 3 – 4 ngày thì cơ thể bắt đầu phát ban, 1 – 2 ngày sau đó thuyên giảm. Đối với một số bệnh nhân, ban có thể nổi lại một lần nữa vào vài ngày tiếp đó.

Dấu hiệu của sốt xuất huyết có chảy máu:

Dấu hiệu của dạng này bao gồm tất cả các dấu hiệu của bệnh sốt xuất huyết nhẹ kèm theo tổn thương mạch máu và mạch bạch huyết, chảy máu cam, chảy máu nướu hoặc dưới da, gây ra vết bầm tím. Thể bệnh này rất nguy hiểm vì có thể dẫn đến tử vong.

Dấu hiệu của sốt xuất huyết Dengue (hội chứng sốc Dengue)

Đây là thể bệnh nặng nhất của Sốt xuất huyết. Nó bao gồm tất cả các biểu hiện của sốt xuất huyết nhẹ cộng với các triệu chứng chảy máu, huyết tương thoát khỏi mạch máu, chảy máu ồ ạt trong và ngoài cơ thể, sốc.

Loại này thường xảy ra ở những bệnh nhân đã có miễn dịch chủ động ( người đã từng mắc bệnh) hoặc thụ động ( do mẹ truyền sang con) đối với một loại kháng nguyên virus. Bệnh thường biến chứng nặng sau 2 đến 5 ngày. Dạng này của bệnh thường xảy ra ở trẻ em ( đôi khi cả người lớn).

Sốt xuất huyết Dengue có thể gây tử vong ở trẻ em và thanh thiếu niên.

Xét nghiệm sốt xuất huyết bao gồm những xét nghiệm gì?

Công thức máu: Xem xét liệu tình trạng tiểu cầu có giảm không, có tình trạng cô đặc máu hay không? Đây là một trong những xét nghiệm có ý nghĩa trong việc chuẩn đoán tình trạng bệnh.

Xét nghiệm điện giải đồ ( Na+, K+, Cl-): Đánh giá tình trạng rối loạn điện giải.

Xét nghiệm chức năng gan ( AST, ALT, GGT): Kiểm tra chức năng gan, đánh giá tổn thương và biến chứng của sốt xuất huyết.

Xét nghiệm chức năng thận ( Urê, Creatinin ): Đánh giá chức năng thận và tình trạng tổn thương thận do biến chứng của sốt xuất huyết.

Xét nghiệm chẩn đoán xác định sốt xuất huyết: Xét nghiệm Dengue NS1 để phát hiện đồng thời và phân biệt kháng thể IgM, IgG kháng nguyên NS1 trong cùng 1 mẫu huyết thanh/ huyết thanh/huyết tương.

Kháng nguyên NS1 có thể phát hiện trong máu của bệnh nhân nhiễm virus Dengue từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 9; kháng thể IgM dương tính từ ngày thứ 3-4  sau khi xuất hiện sốt; trường hợp nhiễm virus dengue lần đầu xét nghiệm kháng thể Dengue IgG xuất hiện từ ngày thứ 8 của bệnh và có thể tồn tại nhiều năm sau đó; trong trường hợp nhiễm virus Dengue thứ nhiễm cần đánh giá hiệu giá kháng thể dengue IgG sau 1-2 tuần.

Phương pháp điều trị sốt xuất huyết:

Bệnh sốt xuất huyết không có phương pháp điều trị vì sẽ tự khỏi trong 2 tuầ

Lý do phải xét nghiệm để phát hiện sớm bệnh là để bác sĩ điều trị tránh những biến chứng nặng xảy ra cho bạn.

Nếu chỉ bị nhẹ thì bạn chỉ cần nghỉ ngơi tại giường, uống nhiều nước. Có thể uống thuốc giảm sốt như aracetamol (Tylenol®, Panadol®) đồng thời thuốc này có thể giảm đau cơ khớp.

Không nên uống các thuốc giảm đau có thể gây biến chứng chảy máu như aspirin, ibuprofen và naproxen sodium.

Nếu bệnh trở nặng hơn, bạn cần đến bệnh viện để bác sĩ theo dõi và tiến hành cấp cứu ngay lập tức.

Xét nghiệm sốt xuất huyết tại Đà Nẵng:

Với đầy đủ máy móc hiện đại và đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm, Phòng khám Medic Sài Gòn tự hào là một trong những Lab xét nghiệm y khoa uy tín, được người dân Đà Nẵng nói riêng và Miền Trung nói chung tin tưởng lựa chọn.

Hãy đến với chúng tôi để được xét nghiệm một cách nhanh và chính xác nhất.

Địa chỉ: 97 Hải Phòng, Hải Châu, Đà Nẵng.

Hotline: 091.555.1519 – 0914.496.516

Biện pháp giúp hạn chế dịch sốt xuất huyết cho bản thân và cộng đồng

Các loại muỗi mang virus sốt xuất huyết thường sống ở những nơi ẩm thấp xung quanh nhà như vũng nước đọng, trong lu, thùng phuy hoặc gần hồ cá. Dọn dẹp các vũng nước đọng thường xuyên để không có điều kiện cho muỗi phát triển.

Đậy kín các dụng cụ chứa nước, hạn chế vứt bỏ các vật dụng có thể chứa nước như chén bát vỡ, thau chậu cũ.

Thả cá vào bể chứa nước để không cho muỗi phát triển.

Nhờ chính quyền địa phương phun thuốc diệt muỗi trên diện rộng.

Ở phòng máy lạnh hoặc phòng sạch sẽ để tránh muỗi vào.

Tránh ra ngoài trời khi bình minh, hoàng hôn và buổi tối, vì những thời điểm này thường có nhiều muỗi bên ngoài.

Khi đi ra ngoài ở các khu vực muỗi mang mầm bệnh, bạn nên mặt áo và quần dài,

Thoa kem chống muỗi ở các vùng da không được áo quần che chắn như cánh tay, mặt, chân và cổ