Cập nhật thông tin chi tiết về Y Học Hạt Nhân Trong Chẩn Đoán Bệnh mới nhất trên website Brandsquatet.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Năng lượng hạt nhân sử dụng trong y khoa được gọi là Y học hạt nhân (YHHN), là một chuyên ngành khoa học đã có gần nửa thế kỷ nay. Việc sử dụng các đồng vị phóng xạ có thời gian bán hủy ngắn ở dạng nguồn hở là một cuộc cách mạng trong y học.
Năm 1951, thuật ngữ y học hạt nhân được dùng lần đầu tiên bởi tiến sĩ Marshall Brucer tại Trường Đại học Oak Ridge, Mỹ. Đáng nói, dù đã được sử dụng sau 60 năm, nhưng đến nay y học hạt nhân vẫn còn được xem là một ngành mới trong y học do chưa thật sự được phổ cập.
Kỹ thuật ghi hình bằng máy SPECT-CT
Những chức năng chủ yếu của y học hạt nhân– Thăm dò chức năng của tế bào, mô, các tạng của cơ thể bao gồm cả hấp thu, đào thải, chuyển hóa.
– Định vị và ghi hình các tạng (còn gọi là xạ hình). Hình ảnh thu nhận được nhờ các bức xạ phóng ra từ đồng vị phóng xạ đã được tế bào, mô hấp thu. Sự hấp thu này tùy thuộc vào trạng thái sinh lý hay bệnh lý, hình ảnh thu được trên xạ hình là hình ảnh chức năng (functional image), khác với hình ảnh cấu trúc (structural image) như khi chụp tia X, siêu âm, MRI.
– Định lượng các hợp chất sinh học có nồng độ thấp bằng kỹ thuật Miễn dịch phóng xạ RIA và IRMA.
– Điều trị bằng đồng vị phóng xạ đang được áp dụng rất rộng rãi, có hiệu quả ở các bệnh viện trong nước và trên thế giới, chẳng hạn như việc sử dụng đồng vị phóng xạ 131I trong điều trị Basedow, cường giáp, bướu giáp nhân độc, bướu giáp đơn thuần và ung thư tuyến giáp, điều trị giảm đau trong ung thư di căn xương bằng 153Sm hoặc 32P… Điều trị ung thư gan nguyên phát quá khả năng phẫu thuật bằng 188Re Lipiodol là đề tài nghiên cứu của IAEA có 10 nước tham gia, BV. Chợ Rẫy được đánh giá là thành công nhất trong 10 nước làm nghiên cứu.
Riêng trong chẩn đoán bệnh, hiện nay nhiều kỹ thuật ghi hình bằng máy SPECT (Single Photon Emission Computed Tomography – chụp cắt lớp bằng bức xạ đơn photon), SPECT-CT, PET (Positron Emission Tomography – chụp cắt lớp bằng bức xạ positron) và PET-CT đã cho những hình ảnh rõ nét và chính xác của các tạng và các bộ phận trong cơ thể.
Ưu điểm so với phương pháp CT-scan (chụp cắt lớp điện toán), MRI (cộng hưởng từ) hay siêu âm, là kỹ thuật ghi hình y học hạt nhân có thể đánh giá được mức độ chuyển hóa, hoạt động chức năng của các tế bào trong một cơ quan, vì vậy chúng được sử dụng như phương pháp ghi hình chuyển hóa hay ghi hình chức năng hay ghi hình ở mức độ phân tử.
Trong các kỹ thuật đó, PET-CT, một kỹ thuật hiện đại, tiên tiến đã phát triển rất mạnh mẽ, giúp ích rất nhiều cho chẩn đoán và điều trị ung thư, tim mạch, thần kinh, nội tiết, tâm thần và nhiều bệnh khác. Trong ung thư, ghi hình PET-CT có thể chẩn đoán ung thư trong giai đoạn sớm, chẩn đoán khối u lành tính hay ác tính trong khi các phương pháp khác còn nghi ngờ, tìm kiếm các vị trí ung thư di căn, tiên lượng hiệu quả của các phương pháp điều trị. Ghi hình PET-CT có thể giúp các thầy thuốc lâm sàng quyết định thay đổi 20 – 40% các phác đồ điều trị ung thư, giúp cho bệnh nhân tránh những điều trị không cần thiết, bất lợi, bớt những chi phí vô ích hoặc cần phải gia tăng mức độ điều trị hiệu quả hơn.
Ở Việt Nam hiện nay, nhiều bệnh viện tuyến trung ương như: Chợ Rẫy (TP.HCM), Bạch Mai (Hà Nội), Quân đội 108 và nhiều bệnh viện khác, đã có khoa Y học hạt nhân đang phát triển mạnh, với nhiều thiết bị hiện đại như máy SPECT, SPECT-CT, PET-CT, máy gamma counter đang thực hiện những kỹ thuật định lượng miễn dịch phóng xạ, ghi hình, đem lại nhiều lợi ích trong y học trong lĩnh vực chẩn đoán, điều trị, và định lượng các nội tiết tố, nhất là trong ung thư học.
BS. TRỊNH THỊ MINH CHÂUTrưởng Khoa Y học hạt nhân – BV. ĐHYD TP.HCM
Khoa Y Học Hạt Nhân
Thông tin đầy đủ và chi tiết Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy ở Hồ Chí Minh. chúng tôi cung cấp thông tin bao gồm địa chỉ Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy sẽ giúp bạn trả lời câu hỏi Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy ở đâu? Các thông tin khác như thời gian làm việc, số điện thoại liên hệ Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy bảng giá dịch vụ, hình ảnh, hỏi đáp và review.
Giới thiệu
Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy là cơ sở trực thuộc Bệnh viện Chợ Rẫy ở Hồ Chí Minh. Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy là một trong những địa chỉ uy tín cung cấp các dịch vụ Ung bướu khu vực Hồ Chí Minh
Tên: Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy
Trực thuộc: Bệnh viện Chợ Rẫy
Chuyên khoa: Ung bướu
Loại hình: Khoa/cơ sở thuộc Bệnh viện/Viện
Dịch vụ: Khám chữa bệnh theo quy định của Bộ Y Tế về Ung bướu
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Bảo hiểm: BHXH, BHYT Theo quy định của Bộ Y Tế
Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy ở đâu?
Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy là cơ sở trực thuộc Bệnh viện Chợ Rẫy ở Hồ Chí Minh
Địa chỉ: 201B Nguyễn Chí Thanh, 12, Quận 5, Hồ Chí Minh
Số điện thoại Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy?
Thông tin liên hệ Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy
Hoặc liên hệ với Bệnh viện Chợ Rẫy để biết thông tin chi tiết
Thời gian làm việc Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy
Lịch làm việc: Thứ Hai – Chủ Nhật: 07h00 – 20h00
Lịch làm việc của Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy có thể thay đổi. Liên hệ Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy để cập nhật giờ làm việc Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy chính xác nhất.
Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy tuyển dụng
Liên hệ với Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy. Hoặc đến trực tiếp Bệnh viện Chợ Rẫy để biết thông tin Khoa Y học hạt nhân – Bệnh viện Chợ Rẫy tuyển dụng.
Trung Tâm Y Học Hạt Nhân Và Ung Bướu
Tôi vừa được xuất viện, trở lại làm việc bình thường trong tình trạng sức khoẻ hồi phục rất tốt sau hơn 2 tháng điều trị ung thư thực quản giai đoạn 3 – 4 tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai (TTUBBM).
Sự tuyệt vọng
Tôi vốn bị bệnh tim mạch, tăng huyết áp, hẹp 4 khúc thân mạch vành, bloc nhánh trái hoàn toàn… Tháng 11/2009, tôi nuốt bị nghẹn, bệnh cảnh ngày một tăng dần. Loanh quanh các bệnh viện với nhiều chẩn đoán khác nhau: bị viêm loét thực quản, bị trào ngược dạ dày, bị chèn ép dây thần kinh số 9…(?) rồi tôi bị ru ngủ bởi một kết quả chụp Xquang có uống thuốc cản quang kết luận rằng tôi “không có u cục gì”. Thật đáng tiếc tôi không được chỉ định nội soi sớm, loay hoay mất gần nửa năm, chứng nuốt nghẹn ngày càng tồi tệ hơn, thậm chí đã đến lúc… nuốt sữa cũng bị nghẹn!
Bệnh nhân Phan Huy Tường đang được xạ trị trên máy gia tốc điều biến liều (từ trái sang phải: BS. Phạm Văn Thái và KTV Đỗ Trình Sa). Ảnh: Kim Vinh
Cho đến ngày “nguyệt tận” của tháng 4 tôi mới đi làm nội soi và bấm sinh thiết ở Bệnh viện 108, kết quả là tôi đã bị ung thư biểu mô vảy không sừng hoá. Tôi vô cùng hoảng hốt những mong đó không phải là sự thật. Tôi làm tiếp nội soi và lấy vi thể, lần này Bộ môn Giải phẫu bệnh Đại học Y Hà Nội vẫn có chung một kết luận như vậy. Gần nửa năm vòng vo, lại thêm chờ đợi hết một kỳ nghỉ lễ dài ngày, tôi hốt hoảng chạy đua thục mạng với nguy cơ di căn.
Một số vị trong ngành y khuyên tôi phải mổ vì may mà khối u của tôi ở 1/3 thực quản dưới và chỉ có thể mổ vì ung thư biểu mô thực quản xạ trị không ăn thua gì!?
Thế là xác định tôi phải mổ (nghe đâu phải cắt bỏ phần thực quản dưới nối với ruột non, bỏ qua dạ dày vì khối u của tôi sát với dạ dày nối dễ bị dò). Vị giáo sư nổi tiếng là người cầm dao mổ hàng đầu của ta hiện nay nhận lời mổ cho tôi, nhưng tôi phải vượt qua được 7 cuộc “sát hạch” sức khoẻ nghiệt ngã trước mổ tại các bệnh viện: Việt Đức, Đại học Y, K và Bạch Mai. Cuối cùng tôi “thi trượt”, không mổ được vì bị vôi hoá mạch vành.
Phẫu trị không được, xạ trị không xong, lúc này tâm trạng tôi hoảng loạn đến tột đỉnh. Lâm bệnh thì phải vái tứ phương, tôi nhờ người thân đi tìm “cao thủ” tư vấn thì nhận được câu trả lời xanh rờn: “Đã ung thư lại còn bị xơ vữa mạch vành thì chữa gì nữa, thôi hãy ở lại vui vẻ với gia đình vài tháng nữa thôi”. Tìm đến “dương trợ” thì như vậy, quá tuyệt vọng, tôi tìm đến “âm phù” thì lại đụng phải một ông thầy tử vi phán như đinh đóng cột: “Không qua khỏi tháng 5 này đâu”?!
Gặp thầy gặp thuốc
Cả nhà lo sốt vó, sục sạo trên mạng, tình cờ tìm được trang web chúng tôi thì được biết Trung tâm Ung bướu Bạch Mai đang sở hữu những máy móc tối tân ứng dụng các thành tựu y học công nghệ cao và đã điều trị thành công nhiều ca ung thư thực quản. Ngay lập tức tôi xin nhập viện trong tâm trạng không mấy tin tưởng và ngao ngán trước tình trạng quá tải và cơ sở vật chất thiếu thốn!
Ngay ngày hôm sau, tôi được chụp kiểm tra bằng máy PET/CT. Đây là một công nghệ cao, giá cũng cao ngất ngưởng: 28.200.000đ/lần chụp, chưa được trừ bảo hiểm. Lúc này tôi đang ở trong tình trạng sắp “chết đói” vì thực quản đã bị bít chặt lại rồi, hoặc phải mở thông dạ dày ăn qua đường ống sonde hoặc phải đặt stent nong thực quản!
Ngay khi nhập viện, tôi được các chúng tôi tại Trung tâm Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai giải thích và thông báo cho biết tôi sẽ được áp dụng những kỹ thuật xạ trị hiện đại có sử dụng hình ảnh của PET/CT (Positron Emission Tomography) để làm mô phỏng và lập kế hoạch xạ trị trên máy gia tốc với kỹ thuật xạ trị điều biến liều (Intensity Modulated Radiation Therapy – IMRT). Qua tìm hiểu, tôi được biết những công nghệ cao này chỉ có thể thực hiện được ở một số nước phát triển, một số nước trong khu vực châu Á cũng chưa tiến hành được kỹ thuật đó. Vậy mà Trung tâm Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai của ta đã làm chủ được kỹ thuật hiện đại này. May mà tôi đã bỏ kế hoạch đi Singapore hay Quảng Châu theo gợi ý của một số người, nếu không thì đã mất toi tiền tỷ! Bởi vì rõ ràng ở Bệnh viện Bạch Mai chẳng thua kém gì nếu không muốn nói là có phần hơn (trừ điều kiện cung cấp dịch vụ y tế).
Hình ảnh khối u thực quản trước
điều trị trên phim chụp PET/CT. Sau điều trị không còn khối u.
Tôi được xạ trị trên máy gia tốc điều biến liều với liệu trình 30 mũi, liên tục 6 mũi/1tuần từ một kế hoạch xạ trị trên toạ độ mô phỏng mà chùm tia xạ được tính toán chính xác đến từng milimet. Đến mũi thứ 25, tôi bắt đầu cảm thấy nuốt đỡ nghẹn, càng về sau càng “thông thoáng” từng ngày. Hết liệu trình, tôi ăn uống trở lại gần như bình thường. Tôi đã được kiểm tra tổng thể phần tim mạch sau xạ trị, kết quả cho thấy không hề hấn gì, nghĩa là tôi đã được các giáo sư, bác sĩ ở đây điều trị với một kế hoạch xạ trị tài tình đến mức không gây tổn thương cho các tế bào lành khi mà khối u của tôi khu trú tại một vùng đặc biệt nhạy cảm như ở vùng trung thất.
Kết thúc liệu trình xạ trị, ngày 21/7/2010, kết quả PET/CT kiểm tra lần cuối cho thấy khối u của tôi đã tan hết, không còn tìm thấy dấu vết tế bào ung thư trong cơ thể!
Như vậy, chỉ trong vòng 9 tuần lễ, tôi đã được Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai cứu thoát khỏi căn bệnh ung thư được coi là nan y mà hầu như không có phản ứng phụ gì.
Thay lời kết
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
– chúng tôi Đỗ Doãn Lợi (Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai).
– chúng tôi Mai Trọng Khoa (Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai – Giám đốc Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu BVBM).
– chúng tôi nội trú Phạm Văn Thái và kỹ sư vật lý Trần Văn Thống.
– KTV xạ trị máy gia tốc điều biến liều Đỗ Trình Sa và cộng sự.
– chúng tôi Nguyễn Thị The, chuyên gia đọc hình ảnh PET/CT. Và các y tá, CBCNV khác của trung tâm
Thành công kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng này có được do những thành tựu y học hiện đại, công nghệ cao điển hình là máy chụp PET/CT và máy xạ trị gia tốc điều biến liều mà TTUBBM đang sở hữu và các giáo sư, bác sĩ ở đây đã chứng tỏ đầy đủ bản lĩnh của mình trong ứng dụng điều trị. Đáng tiếc là giá thành quá cao, nếu không được chi trả bảo hiểm y tế thì sẽ thiệt thòi cho nhiều người bệnh vì họ ít có cơ hội được tiếp cận với công nghệ cao này.
Nhân đây, là người trong cuộc, tôi thiết tha đề nghị Liên Bộ Y tế -Tài chính cần xem xét chi trả bảo hiểm cho các dịch vụ công nghệ cao trong điều trị bệnh ung thư ngõ hầu dành nhiều cơ hội sống sót cho nhiều người bệnh, đặc biệt là bệnh nhân nghèo.
Tôi cũng xin lạm bàn đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét nâng cấp Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu Bạch Mai lên một tầm quy mô mới để tương xứng với năng lực và những thành tựu rực rỡ mà Trung tâm đã đạt được và đó cũng là kỳ vọng của đông đảo người bệnh, nhất là trong tình trạng quá tải như hiện nay.
Qua bài viết, tôi muốn nhắn gửi đến những người không may mắc phải căn bệnh ung thư quái ác này hãy bình tĩnh, hãy tin rằng ung thư không còn là căn bệnh nan y, hoàn toàn có thể chữa khỏi, hoàn toàn có thể “cải tử hoàn sinh” với chất lượng sống được cải thiện rõ rệt.
Phan Huy Tường
Ung Thư Dạ Dày: Dấu Hiệu Triệu Chứng, Nguyên Nhân, Bệnh Học Chẩn Đoán Điều Trị
Ung thư dạ dày đứng hàng đầu của các ung thư đường tiêu hóa. Mặc dù tỷ lệ tử vong đã có chiều hướng giảm trong suốt 60 năm qua nhưng tỷ lệ bệnh so với các ung thư khác vẫn còn cao.
Tỷ lệ bệnh ung thư dạ dày thay đổi giữa các quốc gia khác nhau. Ở Nhật Bản, Trung Quốc, Chilê và Ireland tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong đã có xu hướng giảm đáng kể. Ở Mỹ, trong những năm gần đây, tỷ lệ bệnh này đã giãm (ở nam từ 28/100.000 dân xuống còn 5/100.000 và ở nữ từ 27/100.000 xuống còn 2, 3/100.000) tỷ lệ nam/ nữ là 1, 7, tuổi trung bình là 63. Tỷ lệ tử vong giảm từ 33/100.000 vào năm 1930 xuống còn 3, 7/100.000 vào năm 1990. Năm 1996 có khoảng 22.800 trường hợp ung thư dạ dày mới mắc được chẩn đoán và có 14000 người chết.
Riêng ở Việt nam thì chưa có thống kê cụ thể
Ung thư biểu mô tuyến dạ dày
Khoảng 85% ung thư dạ dày thuộc loại adenocarcinomas (ung thư biểu mô tuyến dạ dày), 15% là loại lymphomas-non-Hodgkin và leio-myosarcomas và các loại u thứ phát ít gặp.
Ung thư biểu mô tuyến dạ dày được chia làm hai loại: loại lan tỏa và loại ruột non.
Giải phẫu bệnh
Loại ruột non:
Là loại ung thư dạ dày hay gặp. Các tế bào tăng sinh có cấu trúc ống dạng tuyến. Loạn sản tuyến (dysplasia) là đặc trưng ở thể bệnh này, loạn sản ở mức độ cao gặp trong giai đoạn tiến triển cũng như ở giai đoạn im lặng kéo dài từ 5 đến 15 năm. Loạn sản có thể xảy ra trên nền viêm dạ dày mạn teo tuyến cũng như ở vùng có dị sản ruột và cả hai phối hợp sẽ làm tăng nguy cơ của Adenocarcinoma dạ dày. Tổn thương ở dạng loét, thường gặp ở hang vị và bờ cong nhỏ dạ dày và thường có giai đoạn tiến triển tiền ung thư kéo dài. Khối u có ranh giới rõ, di căn theo đường máu đến gan và theo đường bạch huyết đến hạch, tỷ lệ gặp ở người già nhiều hơn.
Loại lan tỏa:
Đây là loại ung thư ít biệt hóa hơn loại ruột. Tế bào tăng sinh thâm nhiễm thành từng mảng, làm dày vách dạ dày. Nó phát triển khắp nơi ở dạ dày kể cả tâm vị làm mất khả năng giản dạ dày (gọi là thể linitis plastica hoặc thể đét) khả năng di căn xa. Nó thâm nhiễm phúc mạc và sau phúc mạc, lan tỏa vào các ống bạch mạch, xương. Loại này thường gặp ở nơi mà ung thư dạ dày được xem có nguy cơ thấp như ở Hoa Kỳ và gặp ở người trẻ nhiều hơn. Loại này có tiên lượng xấu hơn loại ruột. Ngoài ra còn một dạng khác là Adenosquamous tiên lượng rất xấu vì tiến triển rất nhanh và di căn sớm.
Tùy độ sâu và độ rộng của u, chia làm ung thư bề mặt và ung thư xâm nhập.
Ung thư bề mặt:
Chỉ giới hạn ở niêm mạc và hạ niêm mạc, chưa đến lớp cơ, biểu hiện 3 dạng:
Typ I: Lồi lên hoặc ở dạng polype .
Typ IIa: Nếp niêm mạc chỉ gờ lên, Typ IIb: Niêm mạc bằng phẳng, Typ IIc: Niêm nạc hơi lún xuống.
Typ III. Là sự đào sâu xuống như hình hang, được bao quanh bởi những nốt niêm mạc. Có trường hợp phối hợp giữa các loại làm cho nó có tính chất của ổ loét.
Ung thư thể xâm nhập:
Vượt qua lớp niêm mạc đến lớp cơ, thanh mạc. Có 3 loại.
Ung thư thể sùi: Một khối trên nền cứng và sùi vào bên trong lòng dạ dày, không có loét hay hoại tử.
Ung thư thể loét: Các nếp niêm mạc hội tụ dừng lại ngoài vòng phù nề.
Ung thư thể xâm nhiễm: Tổn thương lan tỏa tẩm nhuận toàn bộ dạ dày (thể đét).
Ung thư dạ dày thường lan rộng về phía thực quản ở chổ nối dạ dày thực quản khi ung thư nằm ở thân, phình vị. Ở hang vị, ung thư thường lan xuống và gây hẹp môn vị, nhưng xâm lấn qua tá tràng thì hiếm. Ung thư có thể lan đến mạc nối nhỏ, mạc nối lớn, lách, đại tràng, tụy, hạch vùng kế cận.
Ung thư dạ dày thường di căn đến phổi, gan, não, xương, hạch thượng đòn (hạch Virchow), hạch nách trái (hạch Irish), hạch quanh rốn (hạch Sister Mary Joseph), buồng trứng (u Krukenberg), phúc mạc, trực tràng
Các yếu tố nguy cơ và cơ chế sinh bệnh của ung thư dạ dày
Các yếu tố đã được khẳng định:
Loạn sản dạ dày mức độ nặng: Thường gặp ở các thể viêm, loét dạ dày mạn với loạn sản tuyến. Khoảng 10% có thể tiến đến ung thư dạ dày sau 5 đến 15 năm.
Viêm teo dạ dày mạn, dị sản ruột.
Adenomas dạ dày.
Barrette thực quản: Gây ung thư vùng tâm vị.
Vi khuẩn Helicobacter pylori: Gây viêm dạ dày mạn vùng hang vị, viêm teo tuyến dạ dày, loét dạ dày, u limpho dạ dày (MALT) và ung thư dạ dày.
Các yếu tố có thể gây ung thư dạ dày:
Sau phẫu thuật cắt dạ dày vùng hang vị 15 – 25 năm theo dỏi tỷ lệ ung thư là 50 -70% vì có loạn sản ở gần miệng nối.
Hamartomas dạ dày.
Thức ăn: Người ta nhận thấy rằng những người ăn nhiều và kéo dài các thức ăn được bảo quản bằng ướp muối, hun khói hay sấy khô có nồng độ nitrat cao thường kết hợp với ung thư dạ dày. Dưới tác dụng của vi khuẩn Nitrat sẽ bị biến thành nitrosamin, một chất gây ung thư.
Vi khuẩn
Ăn ít trái cây, rau tươi: Gợi ý bới vitamin C ức chế sự biến đổi nitrite thành nitrosamin. Ở Hoa kỳ, sự giảm tỷ lệ mới mắc của ung thư dạ dày kết hợp với sự giảm của những thương tổn lóet dạng ruột ỏ vùng thấp của dạ dày; gợi ý rằng, sự bảo quản thực phẩm tốt hơn, khả năng làm đông lạnh thực phẩm tốt (hạn chế sự phát triển vi khuẩn) có thể cung cấp rộng rãi cho mọi tầng lớp xã hội, đã làm giảm tỷ lệ mắc ung thư dạ dày.
Tình trạng kinh tế xã hội cũng có vai trò quan trọng: Tỷ lệ ung thư dạ dày cao ở các nước có đời sống thấp, khả năng nhiễm khuẩn càng cao.
Thuốc lá và rượu cũng được xem như là yếu tố nguy cơ.
Yếu tố nghi ngờ:
Polyp tăng sản.
Polyp tuyến vùng đáy vị.
Loét dạ dày lành tính.
Nhóm máu A thường dễ bị ung thư dạ dày hơn các nhóm khác. Có lẽ nhóm máu nầy, khả năng bảo vệ của niêm mạc dạ dày chống các yếu tố gây u yếu hơn các nhóm máu khác.
Đặc điểm lâm sàng
Ở giai đoạn sớm: 80% thường không có triệu chứng, số còn lại thường có triệu chứng của loét, nôn buồn nôn, chán ăn, giảm khẩu vị, đau bụng, xuất huyết dạ dày, giảm cân, nuốt khó.
Ở giai đoạn tiến triển: Dấu chứng sụt cân là nổi bật (60%), buồn nôn, nôn, chán ăn, cảm giác nặng tức sau ăn, đau vùng thượng vị, đôi khi có cơn đau loét, chán rượu và thuốc lá, có thể có sốt. Chảy máu nhẹ và rỉ rả thường gặp nhất, với biểu hiện thiếu máu nhược sắc. Hẹp tâm vị thực quản gây khó nuốt đối với thể ung thư ở cao. Hẹp môn vị, tiền môn vị gây đau bụng, nôn, mất nước.
Khám Bụng: Có khi bình thường hoặc có khi sờ được khối u hoặc mảng ranh giới không rõ ở vùng thượng vị. Ung thư dạ dày có thể lan đến thanh mạc dính vào các cơ quan lân cận như tuỵ, đại tràng, hạch, mạc nối, di căn đến phúc mạc, buồng trứng (u Krukenberg), hạch quanh rốn (nốt Sister Mary Joseph), di căn đến hạch bạch huyết vùng và hạch Virchow.(hạch thượng đòn), xương, phổi, gan, tuỷ, não.
Khám tổng quát: Có thể thấy thiếu máu, phù hoặc vàng da, cổ trướng.
Các biểu hiện lâm sàng ít gặp: (Dấu chứng cận u): Giảm sản tủy, những mảng sắc tố đen ở da vùng nách (Acanthosis nigricans), hội chứng Trousseau, viêm da cơ, thiếu máu huyết tán vi thể, sừng hóa tuyến bã, bệnh thận màng.
Cận lâm sàng
Về máu:
Tăng Fibrinogen và các protein khác của phản ứng viêm.
Thiếu máu: Giảm hồng cầu.
Định lượng CEA (carcinogenic embryonary antigen): Tăng, chỉ thấy ở giai đọan muộn trong 1/2 trường hợp, có ích trong việc theo dõi diễn tiến sau phẫu thuật cắt bỏ dạ dày.
Dịch vị:
Phân tích cho thấy vô toan do teo dạ dày trước đó hoặc phối hợp với ung thư.
Nội soi và sinh thiết:
Là một tiến bộ trong chẩn đóan ung thư bề mặt, cho xác định vị trí, tình trạng lan rộng của u, tình trạng chảy máu.
Xét nghiệm tế bào học: Siêu âm:
Bụng, siêu âm nội soi, Scanner bụng: đánh giá độ rộng, sâu và phát hiện di căn của ung thư.
Xét nghiệm tủy:
Chọc dò não tủy, scanner sọ, sinh thiết da: khi có gợi ý di căn.
X quang:
Với kỹ thuật chụp nhuộm Baryte thông thường cho ta hình ảnh:
Hình ảnh khuyết với góc nhọn cắm vào thành dạ dày trong ung thư sùi hoặc loét sùi.
Co rút và cứng đơ trong ung thư tẩm nhuận lan rộng.
Lóet hình nêm (hình ảnh tam tài hay hình lõi táo) trong ung thư thể loét sùi.
Kỹ thuật đối quang kép giúp chẩn đóan tốt các thương tổn nhỏ nằm sát bờ, tương ứng với 3 type của giải phẫu bệnh. (type 1: polypoide, type 2: loét nông, type 3: lóet đào hang).
Chẩn đóan càng sớm thì cơ may điều trị khỏi (giai đoạn Tis), và thời gian sống càng dài. Phát hiện dựa vào X quang và nội soi sinh thiết hàng lọat. Ở Nhật, hiện nay phát hiện sớm ung thư dạ dày đến 90% trường hợp so với Hoa Kỳ là 40%. Đây là giai đoạn T1, T2 và thường ít triệu chứng.
Vào giai đọan muộn, triệu chứng càng rõ và nặng, có thể di căn xa, điều trị rất hạn chế.
Khi nội soi, cần phải sinh thiết ít nhất 10 mảnh. Trong thể đét, cần phải sinh thiết sâu. Trong thời kỳ làm sẹo khi điều trị, cần phải sinh thiết 2 đợt.
Tùy thuộc thể mô học của ung thư, vị trí của u, sự xâm lấn tại chỗ và di căn.
Tiên lượng tốt: Ung thư dạ dày giai đoạn sớm (tổn thương ở niêm mạc, dưới niêm mạc)
Ung thư lọai ruột non có giới hạn rõ hơn nên tiên lượng tốt hơn lọai ung thư lan tỏa, ung thư vùng tâm vị và phình vị lớn do chẩn đóan chậm nên tiên lượng xấu hơn ung thư phần thấp của dạ dày, di căn phúc mạc tiên lượng xấu hơn.
Phân loại theo TNM cho phép đánh giá và tiên lượng sống, nhưng còn dựa vào độ lớn của u (T), tổn thương hạch (N) và sự xuất hiện của di căn (M). T1: U chưa vượt quá niêm mạc, tương ứng với ung thư bề mặt. T2: U đến lớp cơ.
T3: U đến thanh mạc.
T4: U dính vào cơ quan lân cận. N0: Không có hạch.
N1: Chỉ có hạch gần dạ dày, phạm vi quanh 3 cm.
N2: Hach vùng bị xâm nhập nhưng có thể cắt bỏ được. N3: di căn hạch lan rộng: Không thể cắt bỏ được.
M0: Chưa có di căn tạng.
Gđ1: Chỉ ở dạ dày:Tỷ lệ tương đối gặp 26-28%
Gđ2: Có hạch ổ bụng: 43-49%.
Gđ3: Có hạch trên cơ hoành.
Gđ4: Tổn thương lan toả (giai đoạn 3và 4 là 13-31%).
Các loại ung thư dạ dày khác
Lymphoma dạ dày tiên phát
Dịch tễ:
Hiếm gặp hơn lọai adenocarcinoma, chiếm dưới 15% tòan bộ ung thư dạ dày và khoảng 40% các u lympho đường tiêu hoá. Có khoảng 1/3 trường hợp không có hạch. Loại này gia tăng trong suốt 20 năm qua.
U lympho dạ dày có thể nguyên phát hoặc thứ phát, gặp ở mọi lứa tuổi, nhất là sau 50 tuổi. Nhiễm H. pylori dường như làm gia tăng nguy cơ phát triển lymphoma dạ dày đặc biệt là loại MALT (mucosa-associated lymphoide tissue). Hình thái u lympho dạ dày đa dạng, u sinh ra từ các tổ chức dưới niêm mạc lan vào bên trong thành, trên một diện rộng hoặc tạo thành một khối nguyên vẹn. Ở đó niêm mạc có hình nốt, niêm mạc dày ra, đôi khi bị ăn mòn, khối lớn tạo ra u dạng polype, hoặc có khi lan đến tá tràng.
Triệu chứng:
Gầy sút, đau thượng vị, buồn nôn và nôn, thiếu máu, sốt, chảy máu, ít khi thủng. Lâm sàng sờ được khối u (1/3 trường hợp)
Chẩn đoán:
Phân biệt với Adenocarcinoma dạ dày đôi khi rất khó dựa vào nội soi và sinh thiết (đôi khi phải sinh thiết sâu). X quang không có hình ảnh nào là đặc hiệu, nhưng nếu phối hợp thương tổn dạng polype và lóet trợt trên cùng một bệnh nhân thì gợi ý cho chẩn đóan.
Di căn:
Hạch, gan, tủy xương, lách, phúc mạc, tầng trên cơ hòanh.
Tiên lượng:
Tốt hơn adenocarcinome, 40%- 60% bệnh nhân sống được 5 năm. Tiên lượng các gioai đoạn của lymphoma dạ dày theo Ann Arbor.
Gđ1: Chỉ ở dạ dày:Tỷ lệ tương đối gặp 26-28%.
Gđ2: Có hạch ổ bụng: 43-49%.
Gđ3: Có hạch trên cơ hoành.
Gđ4: Tổn thương lan toả (giai đoạn 3và 4 là 13-31%).
Sarcome cơ trơn
Chiếm 1%- 3% Ác tính bắt nguồn từ cơ. Tổn thương ở thân dạ dày, gây loét và chảy máu. Nó hiếm khi xâm nhập vào các tạng lân cận và không di căn hạch nhưng có thể lan đến gan và phổi.
U carcinoid dạ dày
Chiếm 0, 3% ung thư dạ dày. Đây là loại u nội tiết tạo ra các chất có nhiều hoạt tính sinh học như serotonin, histamin, somatostatin và các kinin nhưng không gây các triệu chứng phừng mặt, tiêu chảy và các triệu chứng tim phổi như trong hội chứng carcinoid. Tổn thương thường ở lớp dưới niêm mạc nhưng có thể loét đến lớp cơ. Tổn thương nhiều nơi kém tăng gastrin máu.
U trung mô khác
Ác tính bắt nguồn từ mô thần kinh.
Sarcome mạch máu Kaposi
Chủ yếu ở da, nội tạng đặc biệt dạ dày. Biểu hiện dưới dạng nốt ở dưới niêm mạc, đôi khi lóet có màu đỏ sẫm, đường kính 1-2 cm. Thường gặp ở bệnh nhân AIDS hoặc bệnh nhân đang điều trị bằng liệu pháp ức chế miễn dịch.
U dạ dày thứ phát
Thường hiếm, nguyên phát từ một melanome ác tính, ung thư vú, phổi, tụy, tinh hoàn, tuyến mang tai. Hình ảnh X quang giống với lymphome hoặc u dạ dày thể lan toả. Chẩn đóan bằng nội soi, sinh thiết
Điều trị Carcinoma dạ dày
Phẫu thuật:
Phẫu thuật vẫn là chỉ định hàng đầu, phát hiện sớm, kết quả sau phẫu thuật càng cao (tỷ lệ sống sau 5 năm là 37% ở Nhật và 10-15%: ở Hoa kỳ).
Cắt cách bờ khối u ít nhất 5 cm.
Cắt bán phần: Ung thư bề mặt ở 1/3 dưới chưa di căn hạch thì cắt dạ dày bán phần là đủ.
Cắt toàn phần: Ung thư 1/3 giữa và trên cắt dạ dày toàn phần tốt hơn cắt bán phần hoặc cắt cực trên, nạo bỏ hạch tòan bộ.
Cắt lách phối hợp khi ung thư dạ dày ở bờ cong lớn.
U tâm vị: Cắt phần cuối thực quản và phần đầu dạ dày.
Đặt stent, cắt bằng tia laser kèm cầm máu với Nd:YAG (Argon và Neodymium: Yttrium aluminum garner) qua nội soi trong trường hợp u chảy máu và quá giai đoạn phẫu thuật.
Điều trị ngọai khoa tạm thời:
Khi phẫu thuật bụng thấy có di căn xa.
Điều trị không phẫu thuật:
Cải thiện được triệu chứng đau, triệu chứng toàn thân, làm chậm tái phát từ hạch hoặc các ổ di căn, điều trị giai đoạn ung thư không phẫu thuật được và bổ sung cho can thiệp phẫu thuật.Thường dùng đa hoá trị liệu nhưng chưa thấy tăng thời gian sống, độc cho gan, tim và thận nên dùng thận trọng cho người già.
5-FU: 2600mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 24 giờ, mỗi tuần 1 lần trong thời gian 6 tuần Chống chỉ định: phụ nữ có thai, bạch cầu < 2.500/mm
Cisplatin: 50mg/m2/ truyền tĩnh mạch trong 15 phút tuần 1, 3, 5 và 8.
Calcium folinate 500mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 30 phút mỗi tuần 1 lần trong 6 tuần.
Methotrexate 1500mg/m2 truyền 30 phút nghỉ 60 phút trong ngày thứ nhất .
5-FU: 1500mg/m2 truyền trong 30phút, ngày thứ nhất.
Calcium folinate 15mg/m2 truyền trong 24giờ sau khi truyền methotrexate trong ngày đầu, từ ngày thứ 2 trở đi, truyền trong 6 giờ.
Doxorubicin: 30mg/m2 truyền trong 30phút, lập lại ngày thứ 15 và 29.
Thuốc có nhiều tác dụng phụ như buồn nôn, sốt, đi chảy, viêm thực quản, suy tủy, giảm bạch cầu hạt, nhiễm độc cơ tim, rụng tóc, nổi mày đay.
Dùng1 liều 28- 35Gy trực tiếp tại đáy khối u trong khi phẫu thuật, hoặc trên mặt cắt trong khi phẫu thuật.
Dùng liều 45-50Gy, 20-30 lần kết hợp với hoá trị cho các trường hợp không phẫu thuật được và có tiên lượng xấu(di căn màng bụng, xương, hạch sâu), hoặc cùng với phẫu thuật sẽ làm giảm đau và chậm sự tái phát u và hạn chế di căn.
Kết quả điều trị phẫu thuật: Theo JRSGC:
Tuỵêt đối: T1, T2, hạch nạo vét xa vùng tổn thương, chưa có di căn gan, phúc mạc. Tỷ lệ sống sau 5 năm là 50%.
Tương đối: T1, T2, chưa di căn, hạch gần vùng tổn thương. Tỷ lệ sống sau 5 năm là 25%.
Không điều trị tương đối: T3, lớn, rộng, di căn gan, phúc mạc.Tỷ lệ sống sau năm năm là 15%.
Không điều trị tuỵêt đối: Khi u quá lớn, u ở giai đoạn T4N1, T4N2, có hơn 4 hạch phát hiện khi phẫu thuật (2%).
Các biện pháp hỗ trợ khác:
Bồi phụ sắt, dùng thuốc giảm đau thông thường, morphin và các dẫn xuất của nó.
Điều trị Lymphoma dạ dày và các loại ung thư khác của dạ dày
Lymphoma dạ dày:
Gđ1: Cắt bán phần hay toàn phần kèm hoá và xạ trị sau phẫu thuật: 4 liều CHOP, phối hợp một hay hai lần xạ trị 39, 6Gy. Thành công 80%. Nếu là loại MALT lymphoma thì phối hợp diệt tận gốc HP.
Gđ 2, 3, 4: Phẫu thuật kèm hoá trị liệu, loại lan toả sống không quá 2 năm.
Nếu không phẫu thuật được: Hoá và xạ trị: 4 liều CHOP phối hợp xạ trị 25, 5Gy nửa bụng trên.
Theo dõi tái phát sau phẫu thuật: Nội soi dạ dày trong vòng 3 năm đầu, chú ý vòng bạch huyết Waldeyer vì đây là vị trí hay tái phát.
Sarcome cơ trơn:
Ác tính bắt nguồn từ cơ. Tổn thương ở thân dạ dày, gây loét và chảy máu. Nó hiếm khi xâm nhập vào các tạng lân cận và không di căn hạch nhưng có thể lan đến gan và phổi.
Điều trị phẫu thuật kết hợp hoá trị liệu cho trường hợp đã có di căn
U carcinoid dạ dày:
Đây là loại u nội tiết tạo ra các chất có nhiều hoạt tính sinh học. Tổn thương thường ở lớp dưới niêm mạc nhưng có thể loét đến lớp cơ. Tổn thương nhiều nơi kèm tăng gastrin máu.
Điều trị bằng phẫu thuật, hoá trị kèm Octreotide có thể cải thiện triệu chứng ở nhiều bệnh nhân.
U trung mô khác:
Ác tính bắt nguồn từ mô thần kinh.
Điều trị chủ yếu bằng phẫu thuật.
Sarcome mạch máu Kaposi:
Chủ yếu ở da, nội tạng đặc biệt dạ dày.
Thường gặp ở bệnh nhân AIDS hoặc bệnh nhân điều trị bằng liệu pháp ức chế miễn dịch.
Điều trị bằng phẫu thuật, tiên lượng rất xấu.
U dạ dày thứ phát:
Điều trị bằng hóa trị, tiên lượng xấu.
Bạn đang xem bài viết Y Học Hạt Nhân Trong Chẩn Đoán Bệnh trên website Brandsquatet.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!